Gửi bài:

Chương 41 - 42 (Hết)

Gã trưởng đoàn người Cao Ly khua tay múa chân, rối rít vai nài lính gác thành, nói muốn đi thì cả đoàn phải cùng đi, tôi cũng xin hộ mấy câu, chúng tôi nhao nhao nói thứ tiếng phổ thông Trung Nguyên méo xẹo bập bẹ, khiến gã gác cổng đâm bực bảo: "Không đi nữa thì bắt cả lũ ở lại hết bây giờ!"

Nhưng chúng tôi nào đã chịu buông xuôi, cả nhóm vây quanh quan giữ cổng đua nhau mà nói, bấy giờ hàng người xếp đợi phía sau càng lúc càng dài, nhiều người sốt ruột đâm nhao nhao la ó. Trước đây triều đình và Cao Ly từng xung đột trong nhiều năm, dân Trung Nguyên vốn đã có thành kiến với Cao Ly, nay càng thêm phần khinh miệt, họ chê bọn Cao Ly bát nháo chi khươn không biết phép tắc.

Đám dân buôn Cao Ly tức tím tái, chực xắn tay táo đánh nhau.Tayhiệu úy thấy tình hình căng thẳng, sợ lớn chuyện, lại thêm phần lo đám người đứng chắn cổng càng lúc càng đông, gã vội khoát tay: "Hai đứa Cao Ly ta vừa điểm mặt không được phép rời thành, những kẻ khác mau đuổi ra ngoài!"

Cả đám người lẫn đàn ngựa thồ bị hẩy khỏi cổng, hai gã thương nhân người Cao Ly kia đành chịu nán lại trong thành. Trong lòng tôi thấy áy náy vô cùng, gã trưởng đoàn len lén giật tay áo đoạn chìa tay với tôi

Tôi chưa kịp hiểu ý, gã đã vân vê râu, cười nói thứ tiếng Trung Nguyên bập bõm: "Đưa tiền!"

Tôi sửng sốt cả người: "Mễ La đã chẳng đưa tiền cho ông rồi còn gì?"

Gã trưởng đoàn người Cao Ly cười giảo hoạt: "Hai người, trong thành, thêm tiền."

Tôi nhớ ra hai gã cùng đoàn bị giữ lại trong thành, liền sai A Độ đưa cho gã một miếng vàng lá.

Kể từ lúc đó tôi thấy hối hận vì sự hào phóng của bản thân.

Gã Cao Ly vừa thấy vàng, mắt đã thiếu điều phát sáng. Suốt dọc đường đi, gã bạ đâu liền kiếm cớ vòi vĩnh đấy, nào là ăn cơm thì bọn tôi phải trả tiền, ở nhà trọ cũng cần bọn tôi trả tiền, suốt cả ngày, hễ cứ mở mồm ra là lại thét giá. Tuy tôi khôn ngoan cũng chỉ loại xoàng thôi, nhưng 3 năm ở Thượng Kinh, gần như ngày nào chẳng rong ruổi trên đường với A Độ, tôi biết tỏng thứ gì cần mua bao nhiêu tiền. Bình thường chỉ cần 2 lá vàng là đã đủ mua 1 căn nhà rồi, bọn Cao Ly kia ăn có một bữa cơm thôi mà cũng đòi tôi một lá vàng, chúng vòi vĩnh chẳng khác nào coi tôi là kẻ tiêu tiền như nước. Tôi tự nhủ đằng nào thì cũng là tiền của Lí Thừa Ngân, nên tôi tiêu chẳng xót ruột tẹo nào, vả lại quả thực chúng còn có bạn bị giữ trong thành, thôi thì để chúng ăn chặn một tý cũng chẳng đáng bao nhiêu, thế là tôi chỉ có nước giả đò coi như mình không biết giá cả. Đánh rằng lũ Cao Ly ấy tham lam vô độ, nhưng sống cũng cơ cực lắm, hàng ngày trời chưa tỏ đã phải dậy, rồi đến tối sẩm mới được nghỉ chân. Ngày nào cũng rong ruổi suốt 8, 9 khắc, 3 năm rồi giờ tôi mới có dịp ngồi lâu trên lưng ngựa đến thế, ngựa lắc lư khiến xương cốt đau rừ, tối đến vừa dừng chân trong quán trọ, đầu chạm gối là ngủ ngay tức thì.

Đêm nay đương lúc ngủ ngon thì A Độ chợt lay tôi dậy. Trên tay đã cầm đao, trong bóng tối, thấy đôi mắt nàng ấy ánh lên, tôi cuồng cuồng bật dậy, se sẽ hỏi: "Người của Lí Thừa Ngân mò đến à?"

A Độ lắc đầu. Cũng chẳng rõ nàng ấy không biết, hay không đoán ra.

Chúng tôi nín lặng mọp người đợi trong bóng tối, bỗng một tiếng "xẹt" vang lên, nếu như không để ý, chắc cũng chẳng nghe thấy. Rồi một đoạn ống trúc nhỏ xíu chọc qua giấy dán cửa sổ, thòi vào. A Độ và tôi đưa mắt nhìn nhau, đầu ống trúc chợt phun khói trắng, tôi vừa hít hà đã cảm giác chân tay nhũn nhão, không trụ vững nữa, thì ra thứ khói trắng chúng thổi vào lại là thuốc mê. A Độ xông lên, dùng ngón cái bịt đầu ống trúc, giữ chặt một đằng rồi bất ngờ đẩy thật mạnh.

Ngoài kia chỉ nghe thấy một tiếng rên khẽ, sau đó đổ cái rầm, dường như có thứ gì đó nặng lắm lăn kềnh ra đất. Đầu óc tôi choáng váng, A Độ mở cửa sổ, gió mát lạnh ùa vào khiến tôi có phần tỉnh táo, A Độ lại đưa nước cho tôi uống, lúc bấy giờ mới cảm giác hiệu lực của thuốc mê nhạt dần đi. A Độ mở cửa phòng, ngoài hành lang có một kẽ đang nằm sóng soài, hóa ra là gã trưởng đoàn người Cao Ly, gã bị ống trúc chứa thuốc mê chọc đúng huyệt, giờ mồm vểnh lên, cứng còng ngồi yên vị. A Độ cầm đao xích ngay gáy hắn, đoạn nhìn tôi.

Tôi chỉ sợ bên trong có ẩn tình, liền bảo A Độ: 'Kéo hắn vào đây, rồi tra hỏi trước đã."

A Độ lôi hắn vào, rồi đóng cửa như cũ. Tôi đạp cho hắn một cái, hỏi: "Rút cuộc ngươi là ai?"

Gã đó vẫn bướng bỉnh: "Muốn giết thì giết đi, đại trượng phu hành tẩu khắp giang hồ, đã sẩy tay, hà tất phải hỏi."

"Vậy ra cái loại dùng thủ đoạn hạ cấp đánh thuốc mê người khác cũng được gọi là đại trượng phu cơ đấy?"

Guơng mặt gã trâng tráo, không biết thẹn là gì, gã hắng giọng bảo: "Vì lợi ích quyết không từ mọi thủ đoạn!"

Tôi bảo: "Giờ thì ngươi lỗ chắc rồi nhé!"

Gã còn định già mồm, nhưng A Độ đã rạch nhẹ một nhát lên đùi gã, máu ngay lập tức ồ ồ tuôn. Gã rống lên như lợn bị cắt tiết, hỏi gì cũng phun bằng hết. Thì ra gã Cao Ly này thấy tôi ra tay hào phóng, gã thèm đỏ con mắt nên nảy sinh ý đồ giết người cướp của, đáng nhẽ định đánh thuốc mê tôi và A Độ, chẳng ngờ vừa thổi được ít khói, đã bị A Độ chọc ngược lại, điểm trúng huyệt đạo.

"Thì ra là phường đạo tặc giả dạng thương nhân!" Tôi đạp gã thêm một phát, "Nói mau! Rốt cuộc ngươi hại bao nhiêu người rồi?"

Nước mắt nước mũi gã bắt đầu đầm đìa, lia lia xin tha mạng, gã bảo gã đích thực là dân buôn bán chân chính, chẳng qua nhất thời nổi lòng tham, nên mới làm bừa như thế. Chứ xưa nay chưa từng hại ai bao giờ, nhà còn có mẹ già 70 tuổi và đứa con nhỏ mới lên 3.

Phải chăng lòng tham của con người luôn vô độ vậy? Gã Cao Ly này hám tiền tài, quan viên hám chức tước, mà Hoàng đế lúc nào cũng muốn mở rộng lãnh thổ, thế nên chinh triến triền miên, không hề ngơi nghỉ.

Xưa nay chưa từng có lúc thỏa mãn.

Tôi sực nhớ Lí Thừa Ngân, khi chàng còn là hoàng tử bé con, chung quy cũng phải dấn từng bước mới tới được ngày hôm nay. Phụ hoàng lấy ngôi vua ra để cám dỗ chàng, thế là chàng cứ bước dần cho đến ngày hôm nay.

Mà tôi, thực ra tôi chỉ cần có một người, chúng tôi ở Tây Lương, cùng nhau chăn cừu, thả ngựa. Ham muốn chỉ đơn sơ giản dị vậy thôi, song lại không cách nào đạt được.

A Độ gõ nhẹ chuôi đao vào đầu gã Cao Ly, đầu gã xiêu vẹo rồi ngất xỉu. Tôi và A Độ trói gã dưới gầm bàn, bịt kín cái miệng gã lại. A Độ ra hiệu hỏi tôi có nên trừ khử không, tôi lắc đầu: "Taynày lúc tỉnh dậy cũng không dám báo quan đâu, nói cho cùng thì lúc đầu hắn có âm mưu giết người cướp của. Cứ trói hắn ở đây đã, chúng ta không thể tiếp tục chung đường hắn được nữa, vừa hay đến lúc phải rẽ về phía Tây."

Chúng tôi sợ lộ dấu vết, nên trời chưa tỏ đã rời quán trọ ngay. Ngựa đi được một đoạn, mặt trời mới nhô, cho đến buổi chiều thì ghé qua chợ bán ngựa, đổi sang một cỗ xe bò, tôi và A Độ cải trang thành nông dân và phụ nữ thôn quê, thong thả đi về hướng tây.

Hiển nhiên vẫn có binh mã đuổi theo, nhiều lúc bị cả đội quân từ đằng sau bắt kịp, nhưng chúng nom bộ dạng chiếc xe bò tồi tàn của chúng tôi, chúng hộc tốc phóng qua, chứ hoàn toàn không thèm liếc lấy một cái. Cứ qua một thành là tình hình kiểm soát lại càng thêm sít sao, nhưng có lúc tôi và A Độ tuyệt nhiên không vào thành, mà đi lách qua con đường quê nho nhỏ. Hành trình đương nhiên có nhiều cơ cực, cũng chẳng rõ đã đi được bao lâu, mãi mới đến được Ngọc Môn Quan.

Trước mắt là cửa ải hiểm yếu trấn giữ giữa núi, lúc ấy tôi thấy phấn chấn hẳn.

Chỉ cần qua được cửa ải là đặt chân lên lãnh thổ Tây Vực, dù Lí Thừa Ngân có là đương kim Hoàng đế, nếu như chàng cố tình lùa quân truy đuổi qua bên kia biên giới, chỉ e sẽ khiến cả Tây Vực xôn xao, rồi cho rằng chàng muốn tuyên chiến, đến lúc đó xảy ra đánh nhau thật thì chẳng phải chuyện đùa. Chính bởi vậy mà trong Ngọc Môn Quan, hình dáng tôi và A Độ lúc hóa trang thành đàn ông bất ngờ bị vẽ trên cáo thị truy nã khâm phạm, tuy nhiên, tên trên cáo thị thì lại không là chúng tôi.

Nói thực lòng, bức tranh ấy vẽ rõ giống, Lí Thừa Ngân chỉ nhìn thấy tôi mặc đồ nam có mỗi một lần, thế mà chàng cũng sai người vẽ ra được.

Song giờ đây cả tôi và A Độ đều vận đồ nữ, mà tội phạm khét tiếng trên cáo thị lại là đàn ông, nên chúng tôi vẫn hòa mình vào dòng người xếp hàng chờ qua cửa khẩu. Có điều cả 2 không có giấy thông hành, vấn đề hóc búa là giờ phải làm sao để qua.

Tôi cũng chẳng căng thẳng lắm, trong tay nải có không ít vàng bạc, cộng với võ công cao cường của A Độ, nếu thật sự gặp chuyện, cứ đánh nhau một trận cái đã, không thắng được thì lại bỏ tiền mua chuộc thế là xong.

Chẳng ngờ phen này chúng tôi đã không thắng nổi thì chớ, lại còn hết cả đường mua chuộc.

Tôi liếc vị tướng quân trấn ải.

Là Bùi Chiếu

Tôi thấy Lí Thừa Ngân xảo quyệt thật, tôi vòng vèo khắp thiên hạ hòng tránh chàng, song vẫn phải vượt Ngọc Môn Quan mới về được Tây Lương. Giờ chàng lại sai Bùi Chiếu đứng giữa cửa Ngọc Môn Quan, kiểm tra từng người một thế này, cứ cho như võ công của A Độ tài giỏi hơn người đến mấy, lúc đánh nhau thật, thế nào cũng kinh động đến vạn quân đang đồn trú quanh năm ở đây, lúc ấy, chỉ sợ tôi và A Độ có mọc cánh cũng khó thoát nổi.

Tôi cười giả lả với Bùi Chiếu, Bùi Chiếu cười với tôi.

Tôi bảo: "Ô, sao Bùi tướng quân cũng ở đây à?"

Bùi Chiếu nói: "Mạc tướng được điện hạ phái đến để lùng bắt phạm nhân bỏ trốn."

Vậy mà tôi còn cười bảo: "Bùi tướng quân là Kim ngô tướng quân, thống lĩnh 3 ngàn Vũ Lâm của Đông Cung, không rõ loại tội phạm vượt ngục nào lại kinh động đến cả tướng quân, mà phải đuổi đến tận Ngọc Môn Quan thế này."

Bùi Chiếu tỉnh bơ, lạnh nhạt bảo: 'Đương nhiên là tội phạm quan trọng của triều đình rồi."

Tôi lại cười mấy tiếng: "Tội phạm quan trọng của triều đình..."

A Độ khẽ động đậy, phía sau công sự trên mặt thành đã xuất hiện vô số binh sĩ, bọn họ giương sẵn cung tên, lạnh lùng nhắm mục tiêu vào chúng tôi.

Tôi thở dài, đoạn bảo Bùi Chiếu: "Dù thế nào đi chăng nữa hôm nay ta quyết phải qua cửa khẩu, nếu ngươi cản ta, thì cứ để ta chết dưới muôn tên đi, đằng nào thì chuyện này ta đâu phải chỉ làm có 1 lần."

Bùi Chiếu lại thưa: "Thái Tử Phi hiểu lầm Điện hạ rồi, thực ra Điện hạ một lòng một dạ si mê Thái Tử Phi."

Tôi bảo: "Si mê cái gì mà si mê, ta và Lí Thừa Ngân không còn tình nghĩa gì cả, ngươi chớ có nhắc đến Lí Thừa Ngân trước mặt ta nữa."

Bùi Chiếu nói: "Vụ cháy Thừa Thiên Môn, thực chất không phải do nến."

Tôi hơi hoảng hốt.

"Tết Nguyên tiêu cho muôn dân vào thành trẩy hội, lúc đó thực sự không được phép đóng cổng thành, Điện hạ nôn nóng trong lòng, chỉ sợ thích khách ép Thái Tử Phi xuất thành, sẽ khó bề truy bắt, nên Điện hạ vẫn bất chấp, sai người ngầm phóng hỏa, đốt Thừa Thiên Môn." Giọng Bùi Chiếu vẫn đều đều, "Vì Thái Tử Phi mà Điện hạ làm chuyện đó, trong khi Thái Tử Phi lại không thể tha thứ cho Điện Hạ."

Tin này khiến tôi quá đỗi kinh ngạc, bao lâu không thốt nên lời. Thừa Thiên Môn tượng trưng cho quyền lực đế vương, từ khi Thừa Thiên Môn xảy ra hỏa hoạn, trong triều xôn xao bàn tán, Bệ Hạ cũng vì chuyện này mà phải viết Tội kỉ chiếu(*), vơ tội thất đức vào thân. Có nằm mơ tôi cũng chẳng ngờ, thì ra Lí Thừa Ngân sai người phóng hỏa, chứ không phải tình cờ mà cháy.

(*Tội kỉ chiếu: Các vua ngày xưa ban chiếu tự nhận là có lỗi với dân gọi là tội kỷ chiếu)

Bùi Chiếu nói "Điện hạ thân làm Thái Tử, có nhiều việc buộc phải vậy. Hôm đó phục kích thích khách, lại ngộ thương A Độ, thảy là do mạc tướng cố chấp làm theo ý mình, Thái Tử Phi nếu có bắt tội, đương nhiên mạc tướng sẽ gánh chịu, Thái Tử Phi đừng vì thế mà trách oan Điện Hạ nữa."

Mặc dù tôi chẳng suy nghĩ trù tính gì, song cũng không phải đứa ngốc, tôi bảo: "Ngươi đừng hòng lừa ta."

Bùi Chiếu nói: "Mạc tướng không dám."

Tôi lạnh lùng mà rằng: "Có gì mà ngươi không dám, chẳng phải lệnh vua khó cưỡng đó thôi? Không có lệnh của Lí Thừa Ngân, ngươi dám điều động Vũ Lâm quân bao vây diệt thích khách chắc? Không có lệnh của Lí Thừa Ngân, ngươi dám sai chúng phóng tên đấy à? Ngươi gom hết mọi chuyện về mình, chẳng qua cốt khuyên ta quay về, ta không mắc lừa các người nữa đâu. Này Bùi Chiếu, ba năm trước lúc ta nhảy xuống sông Quên, lúc đó ta tưởng sẽ không phải gặp lại các người nữa. Ba năm này ta quên sạch tất cả, nhưng dễ chừng ngươi chẳng tính đến chuyện, ta sẽ nhớ lại từ đầu. Những gì Lí Thừa Ngân từng làm, ta mãi mãi không bao giờ tha thứ cho chàng, hôm nay ngươi ngăn ta qua cửa khẩu, ta sẽ liều xông qua, muốn chém muốn giết gì thì cứ việc."

Bùi Chiếu trầm mặc một lúc, chợt bảo: "Không."

Tôi cảm giác chẳng hiểu hắn nói gì: "Cái gì không?"

Hắn ngước mắt nhìn tôi: "Bữa đó Thái Tử Phi hỏi, nếu như thích khách giữ người trong tay, liệu mạc tướng vẫn sẽ ra lệnh giết người cùng thích khách, phải không? Bây giờ mạc tướng đang trả lời người, mạc tướng sẽ không làm vậy."

Tôi chợt hiểu, liền ra dấu với A Độ, A Độ rút đao, kề cổ tôi.

Tôi nói: "Mở cổng mau!"

Bùi Chiếu xẵng giọng: "Thích khách uy hiếp Thái Tử Phi, chớ làm Thái Tử Phi bị thương, mau mở cổng."

Cổng thành được mở, cánh cửa nặng trịch phải đến mười mấy người hò nhau đẩy dịch từng chút một, phía bên kia, mặt trời chói gắt đổ nắng chang chang, sáng loáng, phủ xuống người lại hơi ran rát.

Ánh mặt trời ngoài Ngọc Môn Quan luôn nhức nhối là thế, tôi kìm nén sự hả hê, liền thúc ngựa vọt về phía cửa quan ngoại.

Bất ngờ nghe sau lưng có tiếng vó ngựa cất lên, một đoàn kỵ binh đang lao về đằng này. Cờ quạt đi trước phấp phới, tôi thấy hoa văn hình rồng thêu long trọng trên lá cờ, không kịp nghĩ ngợi gì nhiều, khi khoảng cách xích lại gần, vó ngựa cất bụi mù tung bay ập đầu, tôi nheo mắt nhìn đạo quân kia lao đến mỗi lúc một cập kề, rồi mới nhận ra, kẻ dẫn đần hóa lại là Lí Thừa Ngân.

(*)Ngạc nhiên chưa ╮( ̄▽ ̄")╭ không phải 1 đêm xong từng này chap đâu =)) dịch thô lâu rồi giờ đang bấn Lôi Nhị, nên tung ra luôn, chap cuối & phiên ngoại đòi hỏi tâm trạng thoải mái mới xem được, nên hẹn cả nhà mai nhé. Cơ mà cả nhà thích đau một lần cho chóng, hay đau từ từ mới khoái để tớ còn liệu đường =3=

Trái tim tôi bất chợt chùng xuống

Tôi và A Độ thúc ngựa lao về phía cổng thành.

Xa xa vẳng lại tiếng hét: "Đóng cổng thành! Điện hạ có lệnh! Đóng cổng thành!"

Đám sĩ tốt luống cuống bắt đầu đẩy cánh cửa về đằng trước, toan đóng cổng thành.

Cánh cổng nặng trịch đã gần kề ngay trước mắt, ánh sáng lọt qua càng lúc càng vợi, họ ra sức đẩy cửa toan đóng thành, mỗi lúc một hẹp, mỗi lúc một gần, kẽ hở chỉ vừa đủ lọt một con ngựa, xem ra không còn kịp nữa rồi. A Độ lao lên trước, nàng ấy ngoảnh đầu toan kéo tôi sang ngồi cùng ngựa, tôi dang tay, giật mạnh yên, con ngựa đau, nó hí một tràng dài, đoạn nhảy vọt qua cổng thành.

Cổng thành từ từ khép lại, tôi thấy A Độ hốt hoảng ngoái đầu nhìn mình, A Độ ghìm cương quay ngựa dợm vòng lại, nhưng cánh cửa nặng nề kia đã đóng mất rồi, thoạt đầu A Độ chọc đao vào cánh cửa, nhưng cũng chẳng thay đổi được gì nữa. Cổng thành đã đóng, chốt sắt đã cài, tôi nghe đao nàng ấy đang ra sức chặt đứt chốt sắt, song những vết chém vô ích chỉ tổ tóe ra một vài tia lửa, nàng ấy không biết nói, mà cũng không thốt được tiếng nào, tôi thấy mũi đao chém điên cuồng giữa khe cửa, nhưng nhát nào nhát nấy đều phí hoài công sức.

Toán Vũ Lâm lang đã xộc lên, tôi xoay lưng chạy về phía quan ải, chạy thẳng lên thành lầu, nhoài mình trên tường trổ, khom người ngó xuống A Độ vẫn đang bơ vơ nện vào cánh cổng, cửa ải hiểm yếu phòng thủ kiên cố như thế, có mình nàng ấy, sao đủ sức lay động được nó dù chỉ mảy may? Tôi thấy A Độ mếu máo khóc trong nín lặng, chợt lại nhớ đến Hách Thất, huynh ấy phó thác tôi cho A Độ, cũng bằng như đã gửi gắm A Độ cho tôi. Nếu không có tôi, có lẽ A Độ cũng chẳng thiết sống nữa, và tôi cũng vậy, nếu mất đi A Độ, tôi đã bỏ mạng lâu rồi.

Đột Quyết đã diệt vong, A Đô còn bơ vơ hơn tôi gấp một ngàn lần một vạn lần, hai mươi vạn dân Đột Quyết đã chết trong vòng vây của Nguyệt Thị và Trung Nguyên, mối thù không đội trời chung còn đó, vậy mà vì tôi, nàng ấy vẫn ở Trung Nguyên suốt 3 năm.

Chuyện đến ngày hôm nay, người duy nhất tôi thấy mình có lỗi là A Độ.

Vũ Lâm quân đã áp sát chân thành, nhiều kẻ xúm quanh Lí Thừa Ngân vừa xuống ngựa, tôi nghe sau lưng có tiếng bước chân nhốn nháo, chúng đã lên đến thành lầu.

Trái lại, tôi hoàn toàn không hề sợ sệt, chẳng qua chỉ đứng lặng ở đó mà thôi.

Cổ Lí Thừa Ngân vẫn quấn sa trắng, thực ra nhát đao ấy của tôi chỉ cần cứa sâu hơn một chút nữa thôi, có lẽ giờ đây chàng đã chẳng đứng nổi nơi này.

Mình chàng bước lại phía tôi, mà mỗi bước chàng tiến là mỗi bước tôi lùi. Tôi cứ thụt lùi dần, cho đến khi chạm bờ tường trổ thấp tịt, là không thể lùi thêm nữa. Gió tây bỡn ống tay áo tung bay phần phật, cũng giống như bên bờ sông Quên ngày đó. Tôi đứng bên mé vực, mà ngay dưới chân là hố sâu thăm thẳm, mây mù vấn vít ngang lưng.

Lí Thừa Ngân nhìn tôi bằng ánh mắt thâm trầm, cuối cùng, chàng cất lời: "Lẽ nào nàng không cam lòng làm vợ ta thế này ư?"

Tôi cười, song không đáp.

Chàng hỏi: "Rút cuộc gã Cố Tiểu Ngũ kia có gì tốt đẹp?"

Bàn chân đã chạm vào trống rỗng hư không, chỉ có mũi chân vẫn bám trên tường trổ, đong đưa như thể sẽ buông mình rơi xuống bất cứ lúc nào. Mà ánh mắt Lí Thừa Ngân chồng chất những khổ sở phức tạp, như đang kiềm nén, lại chực như sầu thảm.

Tôi bảo: "Cố Tiểu Ngũ có gì tốt đẹp, ta không bao giờ nói cho chàng biết."

Lí Thừa Ngân chợt bật cười: "Tiếc thay hắn đã chết rồi."

Phải, tiếc thay chàng đã chết rồi.

Chàng bảo với tôi rằng: "Nàng theo ta về, ta sẽ không nhắc đến chuyện cũ nữa, mà sẽ đối với nàng tốt hơn. Bất kể nàng có còn nhớ nhung gã Cố Tiểu Ngũ kia hay không, chỉ cần nàng theo ta quay về, ta sẽ không bao giờ nhắc đến chuyện này nữa."

Tôi cười với chàng, đoạn bảo: "Chỉ cần chàng hứa với ta một việc, ta sẽ cam tâm theo chàng về."

Dường như gương mặt chàng không mảy may biểu lộ một cảm xúc nào, chỉ hỏi: "Chuyện gì?"

Tôi nói: "Chàng bắt cho ta 100 con đom đóm."

Chàng hơi thảng thốt, rồi hình như trong ánh mắt nhìn tôi đầy sự khó hiểu. Tôi thấy trước mắt dần nhạt nhòa, vậy mà vẫn cười bảo: "Nước sông quên, đặng quên tình... sông Quên thần kì cho ta 3 năm quên lãng, thế mà không để cho ta một đời được quên."

Nước mắt lăn dài trên gò má, tôi cười nói: "Cứ quên được như chàng, thì tốt biết mấy."

Chàng ngơ ngẩn nhìn tôi, như thể từ đầu đến cuối, chàng không hề hiểu những gì tôi nói, mà tôi cũng chẳng rõ sắc mặt mình thế nào, rõ ràng đang cười, mà nước mắt vẫn mặc sức rơi. Tôi bảo: "Lần này thì ta sẽ quên được chàng thật sự."

Tôi quay người, như một chú chim tung mình giữa trời, như một cánh bướm sà đậu bên khóm hoa, tôi không mảy may do dự vươn người lao xuống. Tôi biết rằng, nơi đây không phải sông Quên, dưới kia vô số những đá dăm lởm chởm, một khi đã ngã xuống, người chỉ có nát bấy.

Tôi nghe thấy nhiều tiếng kêu thất thanh, lúc cấp bách, Lí Thừa Ngân lao lên, chàng vươn dài dải dây lưng giữ lấy tôi. Mọi sự, dường như tái diễn lại cái cảnh của 3 năm về trước. Cả cơ thể bị chàng níu giữ, treo lơ lửng giữa không trung, mà chàng lao theo tôi nên cả người đã mấp mé bên bờ tường. Một tay bám vào gạch tường, tay kia kéo tôi, bàn tay chàng hằn những dấu gân xanh, cơ chừng vết thương ở cỗ đã rỉ máu vì rách, song chàng quyết không buông tay, thậm chí còn hét: "Người đâu!"

Tôi biết một khi Vũ lâm quân xông lên giúp chàng, tôi sẽ không còn bất kì cơ hội nào nữa, tôi với tay, ngọt bén lách qua trước mắt chàng, chàng thét to: "Không!"

Tôi cắt dây lưng, giữa không trung, dải lụa mỏng manh đứt lìa đôi đoạn, tôi cười thật tươi, một nụ cười cuối cùng dành cho cho chàng: "Ta phải quên được chàng, Cố Tiểu Ngũ."

Tôi thấy trong đôi mắt ấy có nét bàng hoàng, máu vẫn ứa ra từ cổ, dường như cả cơ thể chàng vừa chịu đựng một nỗi tổn thương nặng nề mà đường đột nào đó, chàng hơi ngửa ra sau. Tôi thấy máu rỉ từ vết thương, đáp xuống mặt mình. Tôi cười nhìn chàng, có lẽ chàng muốn kéo tôi lại nhưng vô ích, cách có mảy may, thứ duy nhất níu được chỉ là gió, tiếng chàng thảm thiết vang bên tai: "Là ta... Tiểu Phong ơi... ta là Cố Tiểu Ngũ..."

Tôi biết cuối cùng thì chàng đã nhớ lại rồi, đây có lẽ là sự trả thù đau đớn nhất mà tôi dành cho chàng. Ba năm trước, chính chàng bày ra cuộc thảm sát ấy, giết chết tình cảm giữa đôi ta; ba năm sau, cơ sự đã đến nước này, tôi đành cắt lìa những gì từng tồn tại giữa đôi ta.

Tôi thấy chàng dợm lao xuống, có lẽ chàng định nối bước theo tôi giống như ba năm trước, thế nhưng nơi này nào có phải sông Quên, nhảy xuống chỉ có nước nát xương. Thế rồi Bùi Chiếu ngăn chàng, tôi thấy chàng vung tay thụi vào ngực Bùi Chiếu, hẳn chàng đã rất mạnh tay, cú đấm ấy làm Bùi Chiếu chảy máu miệng, nhưng vẫn quyết không buông tay, càng có nhiều người xông lên, giữ chàng lại kì được.

Bầu trời xanh thật... tiếng gió rót ào ào bên tai, tất cả dần trở nên nhạt nhoà trước mắt.

Tôi thấy mình ngồi trên cồn cát, ngắm ông mặt trời khuất lẩn dần, thấy trái tim mình từ từ rũ héo, mãi đến khi khi ánh tà dương vuột khỏi tầm mắt, nắng tắt ở phía đồi cát đằng xa. Màn đêm chụp phủ lên trời đất trăm mối ngổn ngang, tia sáng cuối cùng lụi tàn, không còn thấy đâu nữa.

Dường như tôi đã thấy đám người vây quanh ồ cười, rất nhiều người Đột Quyết không tin Cố Tiểu Ngũ giết được vua sói mắt trắng, thế nên bọn họ vẫn có nét khinh thường ra mặt. Cố Tiểu Ngũ nhấc cung tên, dùng ngón tay gảy dây cung như thể đang gảy đàn. Dây cung phát tiếng boong boong, người dân đứng quanh đấy phá lên tràng cười còn to hơn lúc nãy. Giữa nhưng tiếng cười ồ, chàng bắn một loạt tên liên tiếp, rụng 100 con dơi.

Dường như tôi đã thấy đom đóm giăng màn trời, chẳng khác nào vô vàn đốm sao băng vuột khỏi đầu ngón tay chúng tôi, cái lúc thần tiên trên trời rải sao băng xuống, hẳn cũng thế này chăng. Chúng tôi quây quần với hàng ngàn hàng vạn đom đóm, chúng khẽ khàng lướt qua, đom đóm lần lượt tỏa đi bốn phương tám hướng, tựa những ánh sao băng vạch sắc vàng vào màn đêm. Tôi nhớ trong lời bài hát có cảnh, thần tiên và người chàng yêu đứng giữa con sông, cảnh ấy rực rỡ hoa lệ nhường này chăng.

Dường như tôi thấy mình đang đứng bên bờ sông Quên, bàn chân đã chạm vào trống rỗng hư không, gió vách núi lay tôi chực đứng không yên, đong đưa như thể sẽ rơi xuống bất cứ lúc nào, gió vẫn giật áo quần bay phần phật, ống tay áo như một lưỡi dao mỏng dính, không ngừng quẹt trên cánh tay. Chàng không dám dồn ép nữa, tôi bảo chàng rằng: "Trước kia ta nhìn lầm chàng, giờ đây mới sinh ra nước mất nhà tan, là trời phạt ta phải chịu nỗi này." Tôi nhấn từng chữ: "Muôn đời muôn kiếp, rồi mãi mãi về sau ta sẽ quên được chàng!"

Dường như tôi thấy mình ngồi trong đêm tân hôn ngày đó, chàng nhấc khăn voan trùm đầu của tôi, khăn voan vừa được nhấc lên, tôi chỉ thấy trước mắt sáng lóa, nến lung linh khắp phía ánh trên khuôn mặt, trên thân người chàng. Chàng mặc bào đen, trước ngực thêu rất nhiều những hoa văn tinh xảo. Mấy tháng trước đó, dưới sự đôn đốc của Vĩnh Nương, tôi đã thuộc làu làu như cháo chảy quyển "Lễ Điển", giờ đã hiểu đấy là áo huyền, huân xiêm, thêu 9 chương. 5 chương trên áo có rồng, núi, chim trĩ, lửa, tôn ri; 4 chương trên xiêm có rau tảo, gạo trắng, búa, phất. Áo trung đơn bằng sa trắng, cổ áo lễ có thêu hoa văn nửa đen nửa trắng, viền xanh đen, có tự và tà áo. Dây lưng to bản da tê, móc vàng sáng chói, đai trắng thuần trong không màu son, cũng vải lông lấy màu đỏ thắm và xanh lục, khuy đan bện. Hoa văn tùy theo màu áo, 2 chương gồm lửa và núi cũng vậy.

Chàng mặc áo cổn mũ miễn của dịp đại lễ, ngọc trắng chín chuỗi kết thành dải, màu xanh khoáng như băng lụa phủ qua tai, cài trâm bằng sừng tê, tôn lên vẻ khôi ngô tuấn tú, dung mạo đường đường.

Lúc đó, tôi tưởng đấy là đầu tiên đôi ta gặp gỡ. Vậy mà chẳng hay, đôi ta đã từng gặp nhau nơi đất Tây Lương dưới ánh trăng ngập tràn.

Sau cùng tôi nhớ, khoảnh khắc mình vừa cắt lìa dải dây lưng, lệ đã tràn trong đôi mắt chàng.

Nhưng muộn rồi, chúng ta cãi vã đã 3 năm, vậy mà vẫn phải lòng nhau. Đây là sự trừng phạt của thánh thần dành cho những kẻ đã từng uống nước con sông Quên, đáng lẽ ra đôi ta nên mãi mãi chia xa, mãi mãi không được phép nhớ về nhau.

Tôi yên lòng nhắm mắt, cơ thể rơi xuống chóng vánh, chờ đợi thân mình vỡ vụn.

Thế rồi cơ thể bị hẫng giữa chừng, cơn đau buốt trong tưởng tượng chưa kịp đến, tôi đã mở mắt nhìn, cánh tay mát rượi của A Độ đang bao bọc tôi, tuy A Độ gắng sức nhảy vọt lên, song trên đời này không một ai có thể chịu được lực tổn thương lớn đến thế, hình như tôi còn nghe rõ từng tiếng xương vỡ vụn của A Độ, nàng ấy lấy thân mình làm tấm đệm thịt cho tôi đáp đất. Trước mắt tôi là máu từ mũi, từ tai, từ mắt A Độ ứa ra, tôi gào to: "A Độ!" Hai đùi đau nhói, không tài nào đứng lên được, tôi vật lộn bò dậy, luống cuống muốn ôm lấy A Độ, nhưng hơi chạm vào lại càng đau buốt, vẻ mặt A Độ trông khổ sở, song đôi mắt đen láy vẫn nhìn tôi, cái nhìn điềm tĩnh trước nay chưa từng thay đổi, không một mảy may trách móc. Như thể trông tôi đang dở trò nghịch ngợm nào đó, hoặc như lúc trước kia, tôi từng dắt nàng ấy chuồn xuống phố. Tôi ôm A Độ, thì thào gọi tên.

Tôi thừa hiểu, đã từ lâu, Tây Lương không còn để về. Tôi chỉ muốn nàng ấy cứ bỏ chạy trước đi, nhưng tôi có lỗi với A Độ, tôi hiểu, A Độ sẽ không bỏ lại mình tôi lẻ loi giữa cuộc đời này. Mà tôi cũng hiểu, tôi không thể để A Độ một mình bơ vơ trên thế gian này. A Độ nhắm mắt, mặc kệ tôi có gọi thế đi chăng nữa, A Độ cũng không hay.

Tôi nghe tiếng cổng thành đẩy mở kèn kẹt, binh lính đổ về phía chúng tôi, tôi biết bọn chúng vẫn muốn lôi tôi về với kiếp sống khốn khổ, chúng muốn lôi tôi về chốn Đông Cung cô quạnh. Nhưng tôi không muốn chịu đựng những khổ sở ấy thêm nữa.

Tôi bảo A Độ: "Chúng ta cùng về Tây Lương thôi."

Thế rồi tôi nhặt thanh đao của A Độ lên, lưỡi đao đã sửt mẻ nhiều chỗ sau khi A Độ ra sức chém vào then sắt, tôi cắm ngập thanh đao trong lồng ngực mình, vậy mà chẳng hề đau. Có lẽ toàn bộ đớn đau khổ sở ở đời này, tôi đều đã trải qua, chết có đáng gì nữa đâu.

Máu tuôn rơi, đôi bàn tay vấy máu nắm chặt tay A Độ, từ từ nhoài người nằm bên nàng ấy. Tôi biết, thế là cuối cùng chúng tôi đã có thể về nhà.

Những cảm giác những ấm áp dần lìa xa tôi, bóng tối bủa giăng. Dường như tôi đang trông thấy Cố Tiểu Ngũ, chàng phi ngựa chạy về phía này, tôi biết chàng chưa chết, chàng chỉ đi bắt 100 con đóm đóm cho tôi mà thôi.

Giờ thì tôi muốn chính tay chàng thắt cho tôi chiếc dây lưng của mình, và đôi ta mãi không chia lìa.

Tôi khẽ mỉm cười, trút hơi thở cuối cùng.

Trên mảnh đất hoang vu, dường như có ai đang hát bài ca nọ:

"Có con cáo nhỏ ngồi trên cồn cát, ngồi trên cồn cát, ngắm nhìn ánh trăng. Ô thì ra không phải nó đang ngắm trăng, mà đang đợi cô nương chăn cừu trở về... Có con cáo nhỏ ngồi trên cồn cát, ngồi trên cồn cát, sưởi nắng. Ô thì ra không phải nó đang sưởi nắng, mà đang đợi cô nương cưỡi ngựa đi qua..."

Thì ra con cáo nhỏ ấy đã không đợi được người con gái nó mong hoài bấy lâu.

Hết.

Ngày đăng: 06/01/2014
Người đăng: Bùi Phương Linh
Đăng bài
Bạn thích truyện này?