Gửi bài:

Chương 13 - 14

Tôi toan xô hắn ra hòng nhặt đao lên, hắn duỗi tay phẩy nhẹ, chuôi đao đã cuốn theo chiều gió lao đi mất. Tôi nổi giận đùng đùng vung nắm đấm, nắm đấm vung ra chưa chạm được đến vạt áo hắn, hắn đã với tay chặn đứng cổ tay tôi, hốc mắt tôi cay xè nóng xót, bảo: 'Không cứu thì thôi, ngươi mau cút đi, sau này đừng gặp lại ta nữa!"

Cố Kiếm nhìn tôi trong chốc lát, cuối cùng buông tiếng thở dài, nói: "Nàng đừng giận. Ta đi cứu nàng ấy là được chứ gì."

Tôi mượn cớ đuổi hết người trong phòng A Độ đi, rồi nhô đầu khoát tay với Cố Kiếm ở ngoài cửa sổ. Hắn từ bên ngoài phốc một cái đã nhảy vào, hoàn toàn không gây tiếng động, Kiểm tra tình hình vết thương cho A Độ xong, hắn nói với tôi: "Kẻ nào ra tay dã man thật, thậm chí tĩnh mạch hầu như đều bị cắt đứt."

Trong lòng tôi run rẩy, hắn nói thêm: "Nhưng mà ta vẫn có cách cứu." Hắn liếc qua tôi, "Tuy nhiên ta cứu được nàng ta rồi, nàng định báo đáp ta thế nào đây?"

Bụng dạ tôi nóng như lửa đốt, bảo: "Lúc nào rồi ngươi còn nói mấy lời đấy. Ngươi phải cứu được A Độ, bất kể tốn kém bao nhiêu tiền bạc, ta đều có thể cho ngươi."

Hắn khinh bỉ đáp: "Ta cần tiền bạc làm gì? Nàng coi thường ta quá đấy."

Tôi hỏi: "Vậy ngươi muốn gì?"

Hắn cười cười: 'Trừ phi....trừ phi nàng hôn ta."

Tôi may mà chưa ngất ngay tại chỗ, sao lũ đàn ông lại thích gặm môi thế nhỉ?

Lí Thừa Ngân đã thế rồi, đến cả gã cao thủ thoát tục Cố Kiếm này mà cũng vậy ư?

Tôi đay nghiến răng lợi, áp sát ôm vai hắn, nhón chân hung hăng gặm 1 thôi 1 hồi.

Chẳng ngờ hắn bỗng nhiên hẩy tôi ra, rồi đùng đùng truy hỏi: "Ai dạy nàng?"

Tai tôi như vịt nghe sấm: "Gì?"

"Trước kia nàng chỉ biết thơm má ta thôi, kẻ nào đã dạy nàng?" Sắc mặt hắn xám xịt, "Lí Thừa Ngân à?"

Tôi chỉ sợ hắn không giúp A Độ nữa, thế nên cũng chẳng dám tranh cãi gì với hắn.

Mặt hắn càng tỏ ra khó coi hơn: "Nàng để Lí Thừa Ngân hôn nàng ư?"

Lí Thừa Ngân là phu quân của tôi, lẽ nào không để hắn hôn tôi được chắc? Thực ra tôi rất sợ Cố Kiếm, sợ hắn tức mình đi giết Lí Thừa Ngân, tại toàn thân hắn cứ gồng cả lên, dường như phát điên lúc nào chảng biết nữa, mà vẻ mặt thì căng thẳng vô cùng, ánh mắt cứ bám xoáy vào tôi.

Cuối cùng tôi khó lòng nhịn được, buông tiếng mắng: "Chính ngươi cũng nói rồi mà, thoạt đầu là ta đợi ngươi 3 ngày 3 đêm, tự ngươi không đến. Bây giờ đừng nói ta quên sạch, cứ cho như ta vẫn còn nhớ, chúng ta cũng chẳng thể ở bên nhau được nữa, ta đã gả cho người ta rồi. Nếu như ngươi đồng ý cứu A Độ rồi thì mau cứu nàng ấy đi, còn như ngươi không đồng ý, ta cũng chẳng ép ngươi đâu, thế nhưng bảo ta phản bội là phu quân của ta, đó là điều tuyệt đối không thể. Nữ tử Tây Lương chúng ta, tuy không giống như con gái Trung Nguyên coi trọng cái gì mà tiết liệt trung trinh, thế nhưng ta lấy Lí Thừa Ngân, hắn đã là chồng ta rồi, không cần biết chúng ta trước đây thế nào, bây giờ giữa ta và ngươi không còn tình cảm gì để bàn đến nữa."

Cố Kiếm vừa nghe trọn lời ấy, giật lùi mấy bước, tôi chỉ thấy trong đôi mắt ấy bập bùng lửa giận, phải chăng có thêm một loại....đau thương không nói lên lời?

Thế nhưng tôi sớm đã gạt trái tim sang ngang bằng bất cứ giá nào. Những lời ấy sớm đã muốn nói cho Cố Kiếm nghe, Lí Thừa Ngân tốt với tôi cũng được, mà không tốt thì cũng thế cả thôi, vì Tây Lương mà tôi lấy hắn, ngay lúc nguy hiểm nhất hắn lại cứu tôi, thực lòng tôi không nên phản bội hắn.

Tôi nói: "Ngươi đi đi, ta không cần ngươi cứu A Độ nữa."

Hắn chợt cười: "Tiểu Phong....thì ra đây là báo ứng."

Hắn dang tay đỡ A Độ dậy, lòng bàn tay chống lưng giúp A Độ trị thương.

Cho đến lúc trời sẩm tối, quá trình chữa trị của Cố Kiếm vẫn dang dở. Tôi ngồi ngay cửa, chỉ sợ có người nhô ra quấy rầy họ. Thế nhưng đã mấy ngày chưa được ngủ yên giấc, tôi dựa vào lan can, mơ màng gần như sắp thiếp đi, may mà chỉ chợp mắt có 1 lúc, tại cộc đầu vào lan can mà lập tức bừng tỉnh cả người. Lúc Cố Kiếm bước ra, tôi hỏi hắn: "Sao rồi?" Hắn lạnh nhạt đáp: "Chết làm sao được." Tôi chạy vào xem A Độ đang nằm trên giường, sắc mặt hình như cũng tốt hơn nhiều, bất giác buông tiếng thở phào nhẹ nhõm.

Tôi cảm ơn Cố Kiếm hết lần này đến lần khác, hắn vẫn không đáp lời, chỉ rút từ trong ngực ra 1 bình thuốc đưa tôi: "Nàng nói Lí Thừa Ngân bị thương rất nặng đúng không, thuốc này trị thương ngoài rất hiệu nghiệm, đem cho hắn dùng xem."

Tôi không rõ vì sao hắn tốt bụng đột suất như thế, có lẽ biểu tình trên mặt tôi đang vẽ ra vẻ ngờ vực, hắn lập tức cười khảy: "Sao thế, sợ ta hạ độc hắn à? Vậy trả đây."

Tôi cuồng quýt giấu bình thuốc vào lòng: "Chữa khỏi cho hắn, ta sẽ lại cảm ơn ngươi nhé."

Cố Kiếm lại buông tiếng cười khẩy: "Khỏi cần cảm ơn ta, ta chưa định bụng thôi đâu. Đợi nàng chữa lành hắn rồi, ta mới đi giết hắn. Xưa nay ta không quen xuống tay với kẻ không có mảy may sức lực chống cự, lúc hắn khỏi mới là lúc hắn mất mạng."

Tôi lè lưỡi lêu lêu hắn: "Ta biết ngươi sẽ không dám đâu, đợi vết thương của hắn đỡ hơn, nhất định ta sẽ mời ngươi uống rượu."

Cố Kiếm không nhùng nhằng với tôi thêm nữa, phẩy tay 1 cái đã trở người biến mất.

Mặc dù nói thì thế, nhưng tôi vẫn đưa bình thuốc cho Ngự y xem, bọn họ lấy thuốc ra ngửi thử, ngắm nghía chán, vẫn không hiểu đó là thứ gì, cũng không dám cho Lí Thừa Ngân dùng. Tôi do dự mất nửa ngày, tránh ra chỗ vắng người, khều ít thuốc bôi lên cánh tay mình trước, ngoại trừ cảm giác mát mát ra, cũng chẳng có gì khác biệt. Hôm sau dậy thì rửa sạch, da chỗ đó trơn bóng, xem ra không có bất cứ vấn đề nào. Tôi thấy yên tâm hơn chút ít, võ công gã Cố Kiếm ấy cao cường là vậy, mấy kẻ tuyệt thế ắt hẳn có thứ gọi là linh đơn thần dược, nói không chừng bình thuốc này hóa ra lại có tác dụng thật. Hôm ấy, tôi nhân lúc không ai để ý, lén bôi ít thuốc lên vết thương trên người Lí Thừa Ngân.

Không biết là thuốc này hiệu nghiệm hay thuốc mà Thái Y viện kê cho cuối cùng đã có công hiệu, dẫu sao, sang đến xế chiều ngày thứ tư thì Lí Thừa Ngân cũng đã hạ sốt.

Hắn vừa giảm sốt, tất cả mọi người đều thở phào nhẹ nhõm bao nhiêu, tôi cũng được người ta khuyên nhủ về đi ngủ. Vừa chập chờn chẳng được bao lâu, lại bị Vĩnh Nương gọi dậy, nét mặt Vĩnh Nương thậm chí còn hoảng hốt, bẩm báo với tôi rằng: "Bệnh tình Thái tử điện hạ đột nhiên có chuyển biến."

Tôi vội qua tẩm điện chỗ Lí Thừa Ngân, bên đó đã tụ tập không ít người, thái y thấy tôi vào, vội vã nhường đường, tôi bước đến bên giường, chỉ thấy sắc mặt Lí Thừa Ngân trắng nhợt, thở dồn dập từng cơn, miệng vết thương rớm nhiều mủ, mà hắn vẫn hôn mê bất tỉnh, tuy rằng cơn sốt đã thuyên giảm, thế nhưng sao hô hấp càng lúc càng yếu ớt.

Thái Y chẩn đoán: "Phần phổi của điện hạ bị thương, bây giờ phong tà tràn vào tĩnh mạch, vô cùng nguy hiểm đến tính mạng."

Tôi không hiểu hay là do thuốc trị thương có vấn đề, thế nhưng tất cả những người có mặt trong điện đều thất kinh, Hoàng thượng cũng phái người đến, song tất cả các Thái y hiện nay đều lực bất tòng tâm, chẳng còn cách nào khác. Trong lòng tôi vậy mà lại tĩnh lặng vô cùng, tôi nhón chân ngồi bên giường, nắm chặt tay Lí Thừa Ngân, bàn tay ấy lạnh lẽo, tôi vùi đôi bàn ấy trong tay mình, dùng hơi ấm của chính mình sưởi ấm tay hắn.

Thái y vẫn đang rủ rỉ nói gì đó, tôi cũng chẳng để tâm. Đêm về khuya, trong điện thưa dần bóng người, Vĩnh Nương choàng thêm cho tôi 1 chiếc áo khoác, lúc ấy tôi đang nhoài người bên giường Lí Thừa Ngân, ngắm nhìn hắn không hề chớp mắt.

Hắn cũng đẹp trai thật đấy, lần đầu tiên gặp Lí Thừa Ngân, tôi đã thấy hắn cũng khá ưa nhìn. Đôi mày đen này, rậm này, sống mũi thẳng tắp này, da mặt còn trắng trẻo như ngọc Hòa Điền. Thế mà kiểu trắng muốt ấy không hề giống như con gái đâu nhé, kiểu trắng bóc của hắn có nét thư sinh, không thô sạm như đàn ông Tây Lương chỗ chúng tôi, dường như mang đậm khí chất ôn hòa pha trộn của nước non Trung Nguyên, mang nét đặc trưng riêng của Thượng Kinh.

Đột nhiên tôi nhớ ra 1 chuyện, tôi nói với Vĩnh Nương: "Sai người thả Triệu lương đệ ra, bảo nàng ta đến thăm Thái tử điện hạ."

Tuy Triệu Sắt Sắt đã bị phế thành thứ dân rồi, nhưng tôi vẫn quen thói gọi Triệu lương đệ, Vĩnh Nương chau mày, bối rối thưa: "Bây giờ Đông Cung xảy ra chuyện lớn như thế, vụ họ Triệu kia lại liên đới đến cả Hoàng hậu....nô tì thấy, nếu mà không có chỉ thị của bệ hạ, Thái tử phi không nên...."

Chẳng mấy khi tôi nổi giận, bảo bà ấy: "Bây giờ Lí Thừa Ngân đã thành ra thế này rồi, hàng ngày hắn yêu quý nhất Triệu lượng đệ, sao không để Triệu lương đệ đến thăm hắn chứ? Vả lại Triệu lương đệ là bị vu oan cơ mà? Đã làvu oan, tại sao không để nàng ta đến thăm Lí Thừa Ngân được chứ?"

Vĩnh Nương đã quen nghe tôi lôi cả tên cả họ Lí Thừa Ngân này Lí Thừa Ngân nọ ra gọi, thế nhưng vẫn chưa quen được cái kiểu tôi ra oai tỏ vẻ Thái tử phi, thế là bà ấy chần chừ mất một lúc. Tôi đanh mặt tỏ vẻ kiên quyết, bà ấy bèn lập tức gọi người đi làm.

Đã nhiều ngày rồi không gặp, Triệu lương đệ giờ đây gầy gò. Trước đây vốn dĩ nàng ta có nét đẹp đẫy đà, bây giờ đã hao mòn đi bao nhiêu, lại mang thân phận thứ dân, nên chỉ ăn mặc đơn giản, càng lộ vẻ liễu yếu đào tơ. Nàng ta quỳ xuống bái chào với tôi xong, tôi nói: "Điện hạ lâm trọng bệnh, gọi muội đến để vấn an người."

Triệu lương đệ kinh hoàng ngước đầu nhìn tôi, trong mắt đã đong đầy nước. Nàng ta vừa bật khóc, cổ họng tôi đã nghèn nghẹn khó chịu, bảo: "Muội vào thăm đi, nhưng mà cũng đừng có khóc."

Triệu lương đệ quệt ngang dòng nước mắt, thấp giọng thưa: "Vâng."

Nàng ta vào 1 lúc lâu, quỳ suốt bên giường bệnh Lí Thừa Ngân, đến cùng vẫn nấc khóc nghẹn ngào, khóc đến nỗi trong lòng tôi cứ nhức nhối mãi không thôi. Tôi ra bậc tam cấp ngoài cửa ngồi, ngước nhìn bầu trời.

Trời đêm đen tựa một màn nhung tơ dát nạm đầy ắp những vì tinh tú.

Tôi thấy mình thật đáng thương, như thể một kẻ thừa thãi.

Lúc ấy có người bước lại gần, khom mình vái: "Thái tử phi ạ."

Áo giáp trên người hắn phát ra tiếng lanh lảnh nghe hay hay. Thực ra lúc ấy tôi chẳng muốn gặp bất kì ai, thế nhưng Bùi Chiếu từng cứu tôi đến mấy lần, tôi không thể lờ hắn, thế nên đành rặn ra nụ cười: "Bùi tướng quân à."

"Đêm trở gió lạnh, xin Thái tử phi chớ ngồi nơi gió lùa này."

Nơi đây lạnh thật, tôi buộc lại áo khoác trên mình, hỏi Bùi Chiếu: "Ngươi đã có phu nhân chưa?"

Bùi Chiếu có phần ngây ngô: "Tại hạ vẫn chưa nạp thê."

"Trung Nguyên các người, luôn đề cao cái gọi là 'cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy'. Thực ra như thế chẳng hay ho gì cả, người Tây Lương chúng ta nếu như tâm đầu ý hợp rồi, chỉ cần bắn một đôi chim nhạn, lấy vải bố gói gọn, gửi đến đằng nhà gái, coi như đã cầu hôn, chỉ cần con gái mình bằng lòng, cha mẹ cũng không ngăn cản. Bùi tướng quân này, nếu mà sau này ngươi nạp thê, nhất định phải lấy người mà ngươi cũng thích. Bằng không, không chỉ ngươi tổn thương, mà người ta cũng đau lòng."

Bùi Chiếu nín lặng không đáp.

Tôi vẫn ngước mắt trông trời sao, ngậm ngùi thở dài: "Ta thật sự rất nhớ Tây Lương."

Mà thật ra, tự tôi cũng hiểu, tôi không hẳn chỉ nhớ có Tây Lương thôi đâu, thứ cảm xúc đang mang cứ đong đầy nỗi buồn. Mỗi lúc buồn lại nhớ về Tây Lương.

Tiếng Bùi Chiếu êm dịu cất lên: "Nơi này gió lạnh, hay là Thái tử phi vào điện ngồi."

Tôi ỉu xìu: "Tốt nhất là ta không nên vào, Triệu lương đệ đang ở trong đó, nếu mà Lí Thừa Ngân tỉnh lại, điện hạ thấy ta vào làm phiền ắt sẽ không bằng lòng đâu. Bây giờ điện hạ đang hôn mê bất tỉnh, cứ để Triệu lương đệ nán lại bên điện hạ một lúc nữa đã, nếu như người biết, nhỡ đâu vết thương sẽ chóng lành thì sao."

Bùi Chiếu liền thôi không nói gì, hắn lách người lùi lại mấy bước, đứng cạnh tôi. Tôi cũng chẳng buồn nói chuyện với hắn nữa, chống cằm bắt đầu tập trung ngẫm nghĩ xem, nếu mà Lí Thừa Ngân đỡ hơn rồi, biết Triệu lương đệ bị vu oan rồi, nhất định hắn sẽ mừng lắm đây. Lúc ấy Triệu lương đệ có thể khôi phục thân phận Lương đệ, lúc ấy ở trong Đông Cung này, tôi lại trở thành kẻ khiến người ta phải ghét bỏ.

Tối thiểu thì cũng khiến Lí Thừa Ngân thấy mà ghét.

Trong lòng tôi mông lung, mũi chân không ngừng vẽ những nét loạn xạ trên mặt đất. Cũng không rõ đã ngồi được bao lâu, lúc Vịnh Nương ra nhỏ nhẹ nói với tôi: "Để Triệu Sắt Sắt nán lại lâu không hay, nô tì đã sai người đưa thị về rồi."

Tôi thở dài.

Vĩnh Nương ước chừng đoán ra ý tôi, lại rỉ tai nói nhỏ: "Xin Thái tử phi yên tâm, vừa nãy nô tì luôn túc trực bên cạnh điện hạ, họ Triệu kia cũng không nói gì cả, chỉ khóc thút thít thôi."

Tôi nào có để ý nàng ta nói gì với Lí Thừa Ngân đâu, mà cho dù nàng ta không nói gì với Lí Thừa Ngân, thì Lí Thừa Ngân vẫn cứ thích nàng ta cơ mà.

Bùi Chiếu khom mình hành lễ với tôi: "Hôm nay Thái tử phi bận bịu nhiều rồi, xin người hãy bảo trọng."

Tôi lờ đờ đứng dậy, nói: "Vậy ta vào đây."

Bùi Chiếu vái chào tôi xong, tôi đã quay người bước vào điện, lúc ấy có cơn gió sượt qua thân mình, quả nhiên đem lại cảm giác lạnh lẽo vô cùng, thế nhưng vừa nãy lại không hề thấy thế. Tôi chợt nghĩ, vừa rồi chắc Bùi Chiếu vừa vặn đứng ngay đầu gió che cho tôi.

Bất giác tôi quay ngoắt người, Bùi Chiếu đã lui xuống bậc tam cấp. Đoán chừng hắn không ngờ tôi sẽ ngoái lại, thế nên đúng lúc hắn ngóng theo bóng lưng tôi, tôi vừa quay ra thì bốn mắt gặp nhau, vẻ mặt hắn lúc đó thoáng có nét không tự nhiên, như thể vừa làm chuyện gì sai trái, vội vã đảo mắt nhìn đi chỗ khác.

Tôi chẳng kịp nghĩ xem tại sao Bùi Chiếu lộ vẻ quái đản ấy, chân vừa đặt qua bậu cửa, thấy dáng dấp mặt mày mọi người đăm chiêu ủ dột, tôi cũng chau mày.

Lí Thừa Ngân còn đang hôn mê bất tỉnh, mấy lời của Ngự y nói thì bùi tai lắm, nhưng tôi chẳng nghe lọt câu nào, hắn cứ nằm suốt không tỉnh như thế, chỉ sợ khó mà qua nổi.

Tôi không biết phải làm sao nữa.Tayhắn nhợt nhạt đặt gác lên lớp chăn bông như thể không còn sắc máu hồng hào. Tôi xoa xoa bàn tay ấy, nó đang lạnh buốt.

Tôi mệt mỏi lắm rồi, đã mấy ngày chưa được chợp mắt, tôi ngồi chồm hỗm bên giường, bắt đầu lải nhải tâm sự với Lí Thừa Ngân, trước đây chẳng bao giờ được trò chuyện với hắn kiểu này, mà trước đó giữa chúng tôi chỉ toàn là hằm hè cãi vã. Cái lần đầu tiên tôi được gặp hắn, là khi nào ấy nhỉ? Là đêm tân hôn, hắn nhấc khăn voan trùm đầu của tân nương là tôi, cái đêm ấy bị khăn che kín mít suốt cả buổi, buồn bực đến bí bách. Khăn voan vừa được nhấc lên, tôi chỉ thấy trước mắt sáng lóa, nến lung linh khắp phía ánh trên khuôn mặt, trên thân người hắn. Hắn mặc bào đen, trước ngực thêu rất nhiều những hoa văn tinh xảo. Mấy tháng trước đó dưới sự đôn đốc cua Vĩnh Nương, tôi đã thuộc làu làu như cháo chảy quyển "Lễ Điển", giờ đã hiểu đây là áo huyền, huân xiêm, thêu 9 chương. 5 chương trên áo có rồng, núi, chim trĩ, lửa, tôn ri; 4 chương trên xiêm có rau tảo, gạo trắng, búa, phất. Áo trung đơn bằng sa trắng, cổ áo lễ có thêu hoa văn nửa đen nửa trắng, viền xanh đen, có tự và tà áo. Dây lưng to bản da tê , móc vàng sáng chói, đai trắng thuần trong không màu son, cũng vải lông lấy màu đỏ thắm và xanh lục, khuy đan bện. Hoa văn tùy theo màu áo, 2 chương gồm lửa và núi cũng vậy.

Hắn mặc áo cổn mũ miễn của dịp đại lễ, ngọc trắng chín chuỗi kết thành dải, màu xanh khoáng như băng lụa phủ qua tai, cài trâm bằng sừng tê, tôn lên vẻ khôi ngô tuấn tú, dung mạo đường đường.

Thái tử của Trung Nguyên, đến quần áo nón nảy cũng nhiều trò lắm, tôi nhớ hồi học "Lễ điển", phải đọc rất lâu mới nhớ được đoạn này, thậm chí có nhiều chữ tôi cũng chẳng biết là gì.

Ngẫm lại lúc ấy tôi thích hắn, mà hắn vẫn chẳng hề thích tôi. Hắn nhấc khăn đội đầu xong, rượu hợp cẩn còn chưa uống, cứ thế quay gót bỏ đi.

Thực ra, hắn đi rồi tôi mới thở phào, cũng tại tôi chẳng hiểu mình có quen ngủ bên cạnh một người đàn ông xa lạ không nữa.

Tối đó Vĩnh Nương ở bên tôi, bà ấy sợ tôi nhớ nhà, lại sợ tôi giận, mấy lần giải thích cho tôi nghe, Thái tử điện hạ dạo gần đây bị cảm, ắt chỉ lo Thái tử phi bị lây.

Đợt cảm cúm ấy của hắn, phải dông dài đến 3 năm.

Ở Đông Cung này, mình tôi trơ trọi trong nỗi cô đơn.

Một thân một mình từ xa xôi nghìn trùng đến được đây, dẫu có A Độ đi theo, thế nhưng A Độ lại không biết nói. Nếu mà không cãi vã với Lí Thừa Ngân, ngẫm ra nỗi cô đơn cứ thế mà chồng chất.

Giờ hắn sắp chết rồi, tôi lại đi liệt kê hết mấy điểm tốt của hắn, tôi vắt óc nhớ, mấy chuyện trước đây đều kể tuốt, tôi chỉ sợ không kể cho hắn nghe, sau này hắn chết rồi lại không có cơ hội kể. Có nhiều thứ tôi cứ tưởng mình đã quên bẵng rồi, thực ra vẫn còn nhớ lắm. Thậm chí tôi còn nhớ nguyên mấy câu cãi vã mỗi lần tôi và hắn hục hặc lẫn nhau, tôi kể bằng sạch cho hắn nghe, nói cho hắn biết lúc ấy tôi tức thế nào, tức muốn chết luôn. Nhưng mà tôi vẫn tỏ vẻ không thèm để bụng, tôi biết để cãi thắng được thì chỉ cần giả vờ không thèm quan tâm, Lí Thừa Ngân toàn bị tôi chọc tức đến nghẹn họng không nói lăng được gì.

Lại nói chuyện dải lụa uyên ương, khiến bao nhiêu người cười tôi đấy nhé, Hoàng hậu còn giáo huấn tôi 1 thôi 1 hồi.

Tôi cứ kể không ngơi, chẳng biết vì sao mình phải thế, biết đâu là vì sợ, có lẽ vì sợ Lí Thừa Ngân chết thật. Đêm thâu tĩnh mịch, ánh nến xa xa bập bùng tỏa trên màn, nội điện sâu hun hút, tất thảy tưởng chừng như có lớp màn cách trở, cách trở bởi đêm tối mịt mùng, cách trở bởi quạnh quẽ, chỉ có tôi là đang thì thào nói cho mình nghe.

Thật ra tôi sợ làm quả phụ trẻ lắm. Ở Tây Lương chúng tôi, những người phụ nữ có chồng quá cố đều buộc phải tái hôn với em chồng, như công chúa Minh Viễn của Trung Nguyên được gả đến chỗ chúng tôi ấy, đáng nhẽ là lấy bá phụ, sau này tái giá với phụ hoàng tôi. Mặc dầu Trung Nguyên không có tập tục ấy, thế nhưng vừa nghĩ đến việc Lí Thừa Ngân qua đời, tôi không đừng được cơn buốt cóng, nếu mà hắn chết, tôi nhất định sẽ còn chật vật hơn bây giờ nhiều. Tôi cuống cuồng ngăn mình thôi đừng nghĩ tiếp nữa, gồng lên rặn ra mấy câu chuyện phiếm chẳng đâu vào đâu.

Thì tôi cũng chẳng ngờ hóa ra mình không ghét Lí Thừa Ngân như vẫn nghĩ, mặc dù hắn toàn chọc tôi bực mình thật đấy, nhưng trong 3 năm, số lần gặp gỡ giữa chúng tôi vỏn vẹn đếm trên đầu ngón tay, ngoại trừ mấy lần hắn vì Triệu lương đệ mà đến hỏi tội tôi ra, thì trước đây chúng tôi cũng chẳng cãi vã là mấy. Có lúc không hằm hè nhau, tôi còn thấy không quen cơ...

À còn vụ chép sách, tuy tôi ghét chép sách nhất trần đời, nhưng mà cũng tại mấy lần bị phạt chép quá nhiều sách, mà bây giờ vốn từ Trung Nguyên của tôi cũng mỗi lúc một khá hơn rồi, đều tại mấy quyển sách bị phạt chép ấy. Nào là "Nữ huấn" "Nữ giới", chép đến nỗi tôi thuộc làu làu luôn. Còn có 1 chuyện này nữa chứ, tôi chưa hề kể cho ai biết đâu, ấy là trong sách có nhiều chữ tôi không quen mặt chữ cho lắm, cũng không biết đọc thế nào, thế là tôi vẽ lại y nguyên, tô từng nét từng nét 1, ai mà biết thực ra tôi không biết chữ ấy nào.

Còn nữa, cái chữ "Ngân" trong "Lí Thừa Ngân" ấy, cái chữ này cũng gàn dở lắm, hồi đó lần đầu tiên nhìn thấy, tôi cứ tưởng nó là chữ "Cần"....Bụng cứ bảo không biết chữ ấy rốt cuộc có ý nghĩa gì, nghe nói người Trung Nguyên hay coi trong chuyện đặt tên lắm, sao hắn lại được đặt cái tên ấy nhỉ?
(*chú: Cần đây勤, Ngân đây鄞, giống nhau khác mỗi bộ bên tay phải nên dễ nhầm)

"Ngân Châu...."

Tôi độc thoại cả nửa buổi rồi, mấy khi có người đáp lời, tôi nhất thời buột miệng hỏi lại: "Gì? Ngân Châu nào?"

"Thái tổ Hoàng đế nguyên gốc Ngân Châu....phía đông Trung Châu, phía nam Lương Châu....địa thế rồng bay hổ cuộn... thế nên.... Ta mới có tên là Thừa Ngân...."

Tôi há hốc mồm nhìn, nhìn cái gã đang nằm thở thoi thoi trên giường, giọng hắn bé xíu, nhưng câu chữ mạch lạc, tinh thần trông cũng rất tỉnh táo, mắt khép hờ, nhìn thẳng vào tôi.

Tôi ngây ra mất 1 lúc lâu, cuối cùng giật nẩy người, lớn tiếng hét: "Á!"

Giọng tôi nhất định rất kinh khủng, thế nên toàn bộ mọi người đều ào ào xộc vào, Thái y tưởng tình trạng Lí Thừa Ngân thêm chuyển biến xấu, cuống cuồng lao lên: "Điện hạ sao rồi? Điện hạ sao rồi?"

Tôi chỉ tay vào Lí Thừa Ngân, gần như líu lưỡi: "Điện hạ.... điện hạ...."

Lí Thừa Ngân nằm trên giường, mặt mày vô cảm nhìn xoáy vào tôi, Thái y đã sướng rên đến nỗi khóc thầm: "Điện hạ tỉnh rồi! Điện hạ tỉnh rồi! Mau, mau sai người vào cung bẩm báo bệ hạ! Thái tử điện hạ tỉnh lại rồi...."

Cả Đông Cung nháo nhác cả lên, ai ai cũng phấn chấn, Thái y nói, chỉ cần Lí Thừa Ngân có thể tỉnh lại, chắc chắn vết thương không còn trở ngại gì nữa. Phen này mấy người đằng Thái y viện vui vẻ reo hò, người nào người nấy mặt mày rạng rỡ, cung nhân cũng vui như Tết, vội loan báo khắp nơi. Ngự y bắt mạch lần nữa, cân nhắc kê thuốc, cứ chạy tới chạy lui, ầm ĩ như ong vỡ tổ, nửa đêm nửa hôm đi qua đi lại làm tôi chỉ muốn được đánh một giấc.

Tôi không rõ mình thiếp ngủ từ lúc nào, chỉ nhớ lúc ấy ngự y vẫn rì rầm to nhỏ gì đó bên tai, tới khi tỉnh dậy đã thấy mình đang nằm bò bên mép giường, trên người còn phủ ngay ngắn một chiếc chăn bông. Đùi rơi vào trạng thái tê cứng do nằm lâu, không tài nào nhúc nhích được, vừa động đậy xương cốt toàn thân đã kêu răng rắc....Tôi đánh một giấc ngon lành, thậm chí còn nhỏ dãi lên tay áo của Lí Thừa Ngân, ơ....tay áo của Lí Thừa Ngân à!

Vậy ra tôi đang bò toài trên giường hắn, gác cằm lên cánh tay hắn ngủ suốt đêm, trong nội điện lặng ngắt như tờ không một bóng người, Lí Thừa Ngân nằm bên vẫn đang tỉnh táo, hơn nữa còn đang vẽ ra khuôn mặt nửa cười nửa không ngắm nghía tôi.

Tôi bắt gặp nét mặt ấy nơi hắn, bụng bảo dạ thế là hắn đã tai qua nạn khỏi. Đến lượt tôi trầy trật toan thu bên chân đã tê rần của mình lại, thử rồi mới biết chỉ tổ toi công, vật lộn một lúc lâu mãi không đứng lên nổi, lại còn phần eo.....Trời thì sáng bảnh mắt rồi, chỗ thắt lưng vừa mỏi nhừ vừa đau nhức, cứ như thể cả đêm qua bị xe bò nghiền xéo trên lưng ấy, sau này cấm chỉ không ngủ kiểu này nữa.

Cố mãi không xong, cuối cùng đành chống giường ngồi dậy, tính sải chân thử xem, đang phân vân giữa gọi người vào đỡ mình hay là đợi một lúc nữa chân bớt tê rồi duỗi thử thì hơn nhỉ. Ngay lúc này Lí Thừa Ngân lại buông lời: "Nàng định đi đâu đấy?"

"Về ngủ tiếp..." đễn lưỡi cũng rã rời cả rồi, mở miệng nói mà suýt nữa cắn phải lưỡi, nguy hiểm thật.

"Ai bảo nàng ngủ như lợn ấy, bạ đâu ngủ đấy, vừa nằm xuống đã ngáy, gọi như hò đò vẫn không dậy."

Tôi nín nhịn không ném cho hắn 1 cái lườm, thằng cha này vừa mới khỏi bệnh đã dồn sức cãi nhau với tôi rồi đây.

Hắn vỗ vỗ vào chỗ cạnh mình trên giường.

"Làm cái gì đấy?"

"Không phải nàng muốn ngủ à? Đằng nào thì giường này cũng đủ rộng." Chiếc giường quả thực rất rộng, giường chỗ Lí Thừa Ngân lớn hơn hẳn mấy chiếc giường bình thường khác, 8-10 người leo lên còn dư xài ấy chứ. Nhưng mà vấn đề không phải ở đấy, trọng điểm ở đây là, tôi không cầm được lòng hỏi: "Điện hạ muốn ngủ chung với thần thiếp à?"

Vẻ mặt Lí Thừa Ngân lại không như thế: "Có phải chưa từng ngủ chung đâu."

Thì cũng đúng thế thật.

Thực sự thì tôi đang buồn ngủ đến díp cả mắt, liền bò lên giường, vốn Lí Thừa Ngân phải nhường cho tôi nửa cái chăn, nhưng tôi sợ đụng phải vết thương trên người hắn, thế là với tay mò lấy chăn ở chân giường đắp tạm. Sau đó cứ thế ngủ ngon lành.

Lúc lâu sau Vĩnh Nương khẽ tiếng gọi tôi dậy, tôi nhẹ nhàng choàng áo lên, Vĩnh Nương thì thầm bẩm với tôi chuyện ý chỉ phế truất Hoàng hậu cuối cùng đã được chiếu cho toàn dân trong thiên hạ hay, bên cạnh đó còn nghe nói Thái hoàng Thái hậu đã ra mặt dẹp yên bồn bế, hậu cung hiện nay vẫn rất bình ổn.

Kèm theo thánh chỉ phế bỏ ngôi vị Hoàng hậu, nội đình còn có ý chỉ riêng, ấy là phục hồi lại thân phân Lương đệ cho Triệu Sắt Sắt, với lí do nàng ta bị vu oan.

Tôi ngao ngán liếc nhìn Lí Thừa Ngân vẫn say sưa trên giường. Vết thương kia hiểm ác, mấy ngày nay sắc mặt hắn chỉ một màu tái nhợt thiếu sức sống, người cũng hao mòn đi trông thấy, thậm chí quầng mắt xuất hiện một vầng xanh xám.

Tôi bảo Vĩnh Nương: "Phái người đi gọi Triệu lượng đệ đến chăm sóc Thái tử điện hạ." Nơi này vốn chả thuộc về tôi, tôi trơ lỳ nơi đây đã mấy ngày nay rồi.

Không đợi Vĩnh Nương tấu thêm, tôi đã bước khỏi điện, sai người chuẩn bị xe.

Tôi về tẩm điện của mình, mắt ráo hoảnh, cảm giác buồn ngủ trốn đi đâu không biết. Bụng bảo chắc đã ngủ đủ rồi, tôi tự nhìn mình trong gương, nếu như tôi xinh đẹp hơn 1 tẹo, liệu Lí Thừa Ngân có thích tôi không nhỉ?

Ban đầu Lí Thừa Ngân có thích hay không thích, tôi cũng chẳng bận tâm, thế nhưng trải qua đại nạn này, tôi mới chợt nhận ra, kì thực tôi rất hay để bụng. Giờ hắn tỉnh rồi, tôi lại mong ngóng hắn sẽ quý mến mình. Cái lúc hắn thoi thóp sắp chết ấy, tôi mới hiểu thì ra mình thích hắn nhiều lắm.

Thế mà, trong lòng hắn chỉ có Triệu lương đệ thôi.

Xưa nay hiện tượng bâng khuâng dường này tôi nào có biết.

Ăn chẳng buồn ăn, ngủ chẳng muốn ngủ, ngày nào cũng bần thần một mình.

Triệu lương đệ đã về đại viện nơi nàng ta hằng sống trước kia, Thái hoàng thái hậu bù đắp khá hậu cho sự tủi thân nàng ấy từng chịu đựng, chẳng những ban thưởng nhiều vàng bạc châu báu, mà phụ thân nàng ta mới đó cũng được thăng quan, mấy kẻ nịnh bợ nàng ta mỗi lúc một nhiều. Đằng viện bên ấy ngày nào cũng náo nhiệt, thỉnh thoảng đi qua còn vọng ra tiếng cười nói, tiếng đàn sáo, tiếng hát ca.

Vết thương của Lí Thừa Ngân có lẽ đã tạm ổn rồi, tuy rằng tôi chưa gặp hắn, nhưng mà có lần tôi ngẫu nhiên nghe thấy tiếng hắn cười.

Cười vui vẻ như thế, chắc mẩm đã khỏe hẳn rồi đấy.

Ngày Đại Tuyết năm ấy xảy ra hai chuyện lớn. Một là trong cung truyền chỉ, Hoàng thượng tứ hôn công chúa Lạc Hi cho Bùi Chiếu; cái thứ hai chính là việc Tự Nương được đưa về Đông Cung.

Gia thế của Bùi Chiếu rất lớn, mẫu thân hắn là trưởng công chúa BìnhNam, Vĩnh Nương kể cho tôi nghe: "Thân phận phò mã của Bùi tướng quân từ nhỏ đã được định trước rồi." Nghe đâu Trung Nguyên rất chú trọng chuyện này, vậy ra đã thân nay càng thêm thân.

Tôi chợt nhớ về giấc mơ thường chực nọ, chỉ thấy có chiều thất vọng. Sau này Bùi tướng quân làm phò mã rồi, nói không chừng còn được thăng quan, nếu mà hắn không làm Kim ngô tướng quân ở Đông Cung nữa, có lẽ về sau khó có dịp gặp gỡ.

Thoạt đầu thì vắng bóng Lí Thừa Ngân, bây giờ, đến cả Bùi Chiếu cũng ít có cơ hội được gặp.

Vĩnh Nương thu xếp cho Tự Nương ở tòa viện phía Tây, bà ấy nói nơi đó yên tĩnh, sức khỏe Tự Nương không tốt, cần nơi nghỉ ngơi tĩnh dưỡng.

Tôi cũng ngẫm ra vì Lí Thừa Ngân không thích nàng ta, thế nên Vĩnh Nương mới chọn cho nàng ta nơi cách chính điện rõ xa. Vĩnh Nương nói với tôi: "Triệu lương đệ sắc sảo tỏ rõ, Thái tử phi nên đề phòng, tránh va chạm." Vĩnh Nương nói gì tôi chẳng hiểu lắm, nhưng tôi hiểu đại ý bà ấy bảo tôi cứ lánh Triệu lương đệ đi vậy.

Đằng nào thì ở trong Đông Cung này, tôi cũng chẳng hồ hởi gì cho cam, may mà sức khỏe A Độ cũng có phần khởi sắc, 2 người chúng tôi chọn dịp lẻn ra ngoài chơi.

Hơn tháng trời không ra ngoài, dẫu trời vừa đổ tuyết lạnh cóng, nhưng vì sắp Tết đến nơi rồi, ngoài đường trở nên náo nhiệt vô cùng.

Con phố sầm uất ngập giữa biển người, phủ kín nơi nơi là những sạp nhỏ, quán nhỏ, nào thì bán cây tuyết liễu, nào thì bán cờ xuân, bán cả đồ ăn vặt, bán tranh tết.....còn có cả ca hát tạp kỹ, diễn múa rối, đốt pháo, nhảy dây.....người đông không ních nổi. Vốn ra thì tôi thích nhất chốn đông vui, từ xưa đã thích dắt A Độ hòa mình vào dòng người, ngắm nghía chỗ này một tí, xem xét chỗ kia một tẹo.

Thế mà ngày hôm nay chẳng hiểu tại sao, tôi không tài nào phấn chấn lên được. Lượn lờ một lúc, đã kéo A Độ lại quán chỗ Mễ La uống rượu.

Đằng tửu quán cũng tấp nập người ra người vào, từ tít đằng xa đã nghe rõ tiếng Mễ La vừa thanh vừa giòn dường như là tiếng chuông ngân đang cười cười nói nói.

Bước vào mái lều tre, tôi nhận ra tỷ ấy đang tiếp chuyện khách, mà gã khách ấy tôi cũng quen, là Bùi Chiếu đây mà.

Có biết đâu sẽ gặp Bùi Chiếu ở đây, tôi không tránh khỏi nhìn hắn sửng sốt, mà xem ra hắn gặp tôi cũng khá bất ngờ, thế nên cũng có phần giật mình.

Tôi thấy Bùi Chiếu mặc thường phục, tác phong nhàn nhã, liền chắp tay chào hỏi: "Chào Bùi công tử." Hắn phản ửng cũng mau lẹ, lập tức đáp lời: "Lương công tử ghé quán." Quán chật ních người, chỉ có bàn cạnh Bùi Chiếu là còn trống, tôi thói phóng khoáng không quen bày trò khách sáo, liền gọi A Độ ngồi xuống trước đã, rồi thì gọi 2 hũ rượu.

Có câu gì nhỉ, à, mượn rượu giải sầu.

Dẫu tôi không có sầu cần giải, nhưng trong bụng thấy ngán ngẩm quá chừng, nốc cạn mấy bát rượu xong, tinh thần mới sống dậy đôi phần lạc quan.

Tôi cầm đũa gõ bát, khẽ ngâm nga một làn điệu dân ca của người Tây Lương chúng tôi: "Có con cáo nhỏ ngồi trên cồn cát, ngồi trên cồn cát, ngắm nhìn ánh trăng. Ô thì ra không phải nó đang ngắm trăng, mà đang đợi cô nương chăn cừu trở về..... Có con cáo nhỏ ngồi trên cồn cát, ngồi trên cồn cát, sưởi nắng.....Ô.....thì ra không phải nó đang sưởi nắng, mà đang đợi cô nương cưỡi ngựa đi qua....." Đôi ba người trong quán vỗ tay lộp bộp, vậy mà hứng thú trong lòng cứ chống chếnh vợi dần, không nén được tiếng thở dài, lại tu cạn 1 bát rượu, bắt đầu chuyển sang nhắm món thịt dê thơm phức. A Độ níu góc áo tôi, tôi biết nàng ấy khuyên tôi uống ít rượu thôi, thế nhưng tôi vẫn giả trò tảng lờ, lúc tôi vùi đầu thưởng thức thịt dê, chợt vang lên âm thanh dìu dặt, là tiếng khèn tất lật. Tôi ngước đầu trông lên, thảng thốt nhìn Bùi Chiếu đang ngồi đầu bàn phía bên kia.

Chẳng hiểu cớ gì A Độ lại đưa cây khèn cho hắn, hắn thổi xuất thần, và âm thanh véo von ấy cứ tuôn không ngừng.

Tôi chống cằm lặng nghe tiếng khèn.

Hắn thổi tiếp bài ban nãy tôi hát dang dở, hẳn là hắn chưa từng nghe bài hát ấy, thế nên tiếng khèn trúc trắc dè dặt, tuy âm luật không sai, nhưng cứ ngắc ngứ từng hồi, thổi một chặp mới bắt đầu vào guồng nhịp nhàng trôi chảy. Làn điệu dân ca này vốn có tiết tấu vui tươi rộn ràng, thế mà chẳng hiểu tại vì sao, lần nào tôi nghe cũng thấy thắt lòng.

Bùi Chiếu thổi một điệu dài rồi mới đặt cây khèn xuống.

Tôi uống tiếp một bát rượu, hỏi hắn: "Ngươi giúp ta một việc được không?" Bùi Chiếu vẫn vẽ thói khách khí với tôi: "Xin công tử cứ sai bảo."

"Ta chưa từng được tới lầu cổng thành Chu Tước ngắm cảnh, ngươi có thể lén dẫn ta đến đó chơi không?"

Nom sắc mặt Bùi Chiếu thoáng vẻ lúng túng, tôi lẩm bẩm: "Thôi, coi như ta chưa nói gì."

Chẳng ngờ Bùi Chiếu lại thưa: "Lén đi thì không hay lắm, nhưng vẫn có cách, song có điều công tử phải giả làm tùy tùng của tại hạ, như thế chỉ e công tử phải khổ một phen thôi."

Tôi lập tức phấn chấn hẳn lên, vỗ tay cười: "Cái này thì có hề gì."

Tôi cùng A Độ đóng giả làm tùy tùng theo hầu Bùi Chiếu, nghênh ngang theo hắn lên cổng Chu Tước.

Cổng Chu Tước là nơi có địa thế cao nhất trong Thượng Kinh, so với gác chuông ở hồ Thái Dịch chốn Hoàng cung xem ra cao hơn nhiều. Vốn do nơi đây chính là cổng chốt phíaNamcủa cửu thành Thượng Kinh thế nên canh phòng hết sức nghiêm ngặt, ba bước một chòi canh, năm bước một đồn gác. Song Bùi Chiếu vẫn đưa tôi lên cổng lầu thuận lợi suôn sẻ.

Đứng trên cổng lầu, đón gió phần phật táp vào mặt, gió tựa những nhát dao rát buốt cứa lên da thịt. Thế nhưng trông xuống nhà nhà treo đèn kết hoa trong Cửu Thành, phong cảnh ấy hùng vĩ vô cùng. Phố thị thẳng tắp liền kề, như một bàn cờ được đặt ngay trước mắt, nơi những lầu quán rải rác khắp kinh thành, hệt một bồn đá thạch anh tích tụ hàng ngàn đốm sáng. Phóng tầm mắt nhìn bao quát, thậm chí mái ngói lưu ly nơi hoàng cung xa xăm mang màu đại dương, màu xanh thâm trầm ấy cứ miên man lao thẳng về phía chân trời.

Bùi Chiếu chỉ cho tôi xem: "Bên đó là Đông Cung."

Có ngắm được Đông Cung hay không, tôi nào có bận tâm, tôi kiễng chân, chỉ muốn nhìn về nơi xa hơn cả.

Đứng ở chỗ cao là thế, cũng chẳng hề trông thấy Tây Lương.

Tôi tiu nghỉu nhoài người trên tường trổ, cất giọng ủ ê hỏi Bùi Chiếu: "Ngươi có nhớ nhà không?"

Phải một lúc, hắn mới thưa: "Mạc tướng sinh ra và lớn lên ngay tại kinh thành, chưa xa rời Thượng Kinh được mấy lần, thế nên không có cảm giác nhớ nhà."

Tôi ngẫm thấy mình thật chẳng ra sao, đành ngượng ngùng ngoái lại nhìn hắn. Trên cổng thành nổi gió to, tay áo choàng cuốn phất phơ theo chiều gió, hắn đứng cách tôi một khoảng xa đến nỗi nơi tường thành đèn đuốc ảm đạm tôi không tài nào nhìn ra khuôn mặt hắn đang mang thần sắc gì. Đoạn bảo: "Thổi một điệu khèn cho ta nghe đi."

A Độ đưa khèn tất lật cho Bùi Chiếu, hắn chậm rãi thổi, vẫn là làn dân ca tôi hát mới rồi.

Tôi ngồi bên bờ tưởng trổ, lầm bầm ngân theo tiếng khèn: ""Có con cáo nhỏ ngồi trên cồn cát, ngồi trên cồn cát, ngắm nhìn ánh trăng. .....Ô.....thì ra không phải nó đang ngắm trăng, mà đang đợi cô nương chăn cừu trở về..... Có con cáo nhỏ ngồi trên cồn cát, ngồi trên cồn cát, sưởi nắng.....Ô..... thì ra không phải nó đang sưởi nắng, mà đang đợi cô nương cưỡi ngựa đi qua....."

Tôi biết, con cáo ấy chẳng đang đợi ai cả, mà rằng nó đang rất nhớ nhà.

Bẵng đi một lúc chẳng rõ là bao lâu, tôi mới thôi lầm thầm, thế nhưng tiếng khèn cứ văng vẳng quấn quít. Nhịp điệu thân thương ấy khiến tôi thấy sao mà yên lòng, sao mà nhẹ nhõm. Dẫu cho chốn tường thành chót vót lạnh lẽo, đáy lòng vẫn đọng lại một hơi ấm nồng, nơi ấy có tiếng gọi của Tây Lương, hơi thở của Tây Lương vẫn trọn vẹn ngay tại nơi ấy, ngay giữa lòng Thượng Kinh phồn hoa rộng lớn này, nó là thứ duy nhất tôi thân quen, tôi thấu hiểu.

Mây ửng sắc vàng sà xuống ngang đầu, sao trăng chẳng thấy đâu, chỉ có gió quất trên da thịt, đau mà rát. Giấc ngủ chập chờn quanh mình, tôi ngáp 1 cái rồi dựa vào A Độ.

Tiếng khèn nỉ non cất lên, dường như là làn sương mùa đông, dập dềnh trong cả những cơn mơ đưa tôi vào giấc ngủ.

Ngay lúc ấy, trên mặt chợt buốt, tôi ngước đầu trông lên.

Thì ra trởi đổ cơn mưa tuyết, tuyết từ trời cao thủng thỉnh rơi xuống, gió không hiểu tự lúc nào đã ngừng nghỉ, chỉ có tuyết rả rích chi chít đáp hạ trong câm lặng. Một cụm hoa tuyết óng ánh bung cánh xõa nở giữa bốn bề đất trời, trời cao kia như bị thủng 1 cái lỗ, tuyết từ cái lỗ trên trời rỉ xuống liên miên không ngớt. Nơi này một mảng, nơi kia một đụn, rũ mình phất phơ theo chiều gió tung bay.

Ngày đăng: 06/01/2014
Người đăng: Bùi Phương Linh
Đăng bài
Bạn thích truyện này?