Gửi bài:

Phần 3 - Vực nước sâu - Chương 33 - 34

Dọc đường đi, trong lòng tôi nóng như nung như đốt, chỉ sợ mình về chậm một bước, chỉ sợ Tây Lương cũng bị Lí Thừa Ngân thảm sát giống như lũ chúng từng làm với Đột Quyết. Tôi và A Độ gấp rút lên đường ngay trong gió tuyết, cả chặng đường trải qua bao nhiêu cơ cực, cuối cùng đã chạm mặt Vương thành Tây Lương.

Thấy thành quách vẫn trong cảnh bình yên vô sự, tôi bất giác thở phào nhẹ nhõm. Cổng thành vẫn mở toang như thường lệ, tiết trời sắp vào đông, đội buôn thưa dần, lính gác co mình dưới tấm áo da dê, núp trong cổng tò vò đánh giấc gà gật. Tôi và A Độ âm thầm tiến vào Vương thành.

Trong tiết se lạnh của đêm cuối thu, cung điện hiển hiện trong nét thân thương mà trang nghiêm, tôi không đánh động lính gác, mà tiến thẳng vào vương cung qua lối cổng nhỏ. Vương cung của Tây Lương thực ra chỉ có vài ngàn quân canh giữ, phòng thủ lại rất lỏng lẻo, suy cho cùng, Tây Lương chẳng gây thù địch với bất kì ai, khách vãng lai toàn là dân buôn bán. Nói đến Vương cung, thực chất canh phòng còn chẳng nghiêm ngặt bằng phủ đô hộ An Tây. Trước đây, tôi thường lén ra khỏi vương cung bằng đằng cửa nhỏ, ở ngoài chơi chán rồi lại về lối ấy, chưa một lần bị bại lộ.

Cả tòa cung điện dường như chìm trong giấc ngủ say, tôi dẫn A Độ về phòng mình, bên trong lặng như tờ, tịch không bóng người. Tiết trời buốt lạnh, A Độ cóng đến độ mặt mày trắng bệch, tôi lấy một tấm áo da choàng cho A Độ, ủng đi nhiều cũng mòn, thủng lỗ hở cả ngón chân. Tôi lại tìm 2 đôi ủng mới để đi, giờ thì ấm rồi nhé.

Tôi chạy men theo hành lang về phía tẩm điện của mẹ, chỉ mong sớm được gặp mẹ.

Đằng tẩm điện không châm đèn, nhưng trong cung có đốt lò, nỉ trải sàn cũng đặt đến vài chậu sưởi to, tôi trông cha đang ngồi trước lò sưởi, dường như người đang cúi đầu.
Tôi khe khẽ gọi: "Cha ơi."

Bóng lưng cha giật thót, cha từ từ quay lại, nhìn tôi, mắt cha đỏ quạch: "Con gái, con đã bỏ đi nơi nao?"

Trước kia, tôi chưa từng chứng kiến cha mình dưới dáng vẻ này, vành mắt tôi thế mà đã cay cay, dễ chừng bao nhiêu tủi thân trong lòng bấy lâu nay đều vỡ òa chực theo khóe mắt mà tuôn. Tôi kéo tay áo cha hỏi: "Cha ơi, mẹ đâu ạ?"

Mắt cha chỉ càng hoen đỏ, tiếng người nghèn nghẹn phát ra từ mũi, cha bảo: "Con gái ơi, mau chạy đi, con mau trốn đi."

Tôi ngớ người nhìn cha, A Độ đã bật dậy tuốt đao. Bốn bề bỗng nhiên dậy đèn, vô số lính cầm đèn lồng bó đuốc xộc vào, kẻ dẫn đầu nom rất quen mặt, gã chính là sứ thần mà Trung Nguyên phái đến Tây Lương cầu thân, giờ đây gã vênh váo ra vẻ ta đây, như 1 con gà trống hiếu thắng thủng thẳng từng bước tiến vào. Gã nhìn cha tôi, cũng chẳng buồn quỳ xuống vái chào, mà hống hách bảo rằng: "Tây Lương vương, Công Chúa đã về đây rồi, đương nhiên đã đến lúc phải thực thị hôn ước giữa hai nước, giờ thì ngài không thể kiếm cớ đùn đẩy được nữa rồi."

Lũ này thật đáng ghét, tôi kéo tay áo cha, gặng hỏi: "Mẹ đâu vậy cha?"

Chợt nước mắt trên gương mặt cha nhỏ dài, đấy là lần đầu tiên tôi thấy cha mình khóc, bỗng nhiên tôi rùng mình, thoắt cái cha tuốt đao bên thắt lưng, chỉ thẳng vào lũ người Trung Nguyên, giọng khàn khàn âm u, cha bảo: "Lũ Trung Nguyên này, con ơi, con nhìn bọn Trung Nguyên này đi, chính chúng nó đã dồn mẹ con vào chỗ chết. Chính chúng nó ép Tây Lương chúng ta, bắt ta phải giao mẹ con cho chúng, mẹ con không cam tâm chịu nhục, bà ấy đã dùng đao tự vẫn ngay chính trong vương cung này. Lũ chúng nó... lũ chúng nó còn dám xộc vào vương cung, mục sở thị bằng được xác mẹ con chúng nó mới thỏa lòng....Lũ hung thủ bọn nó! Chính tay chúng nó đã sát hại mẹ con..."

Giọng cha dường như một lời nguyền rủa rì rầm, vo vo vang vọng giữa chốn vương cung, còn tôi thì như bị giáng cho một cú nặng nề, thụt lùi về phía sau. Cha rạch má chính mình, máu tươi đầm đìa khuôn mặt, người vung đao về về phía sứ tiết Trung Nguyên đang đứng. Thế người dũng mãnh như sư tử, lũ Trung Nguyên ấy vội vàng tản ra bốn phía, một tiếng động nghẹn thở vang lên, đầu gã sứ thần đã bị người chém rụng. Cha gạt đao, thở dốc nặng trĩu, binh lính Trung nguyên đã thắt vòng vây hãm, có kẻ gào: "Tây Lương vương, ngài giết sứ thần Trung Nguyên, chẳng lẽ định tạo phản sao?"

Mẹ! Mẹ tôi! Tôi bươn bả suốt muôn ngàn đắng cay trở về đây, thế mà không thể gặp được mẹ nữa rồi..

Toàn thân run rẩy, tôi chỉ lũ chúng, rít giọng quát: "Lí Thừa Ngân đâu? Hắn đâu? Hắn trốn đâu rồi?"

Không một kẻ nào cho tôi câu trả lời, có kẻ bước ra từ đám người, nom ăn vận có vẻ như tướng quân Trung Nguyên. Gã nhìn tôi, nói: "Bẩm Công Chúa, Tây Lương vương trong lúc thần trí không ổn định đã ngộ sát sứ tiết Trung Nguyên, đợi đến lúc yết kiến điện hạ, thần sẽ bẩm báo lên người nhằm làm sáng tỏ sự việc. Mong Công Chúa giữ thái độ bình tĩnh, tránh làm ảnh hưởng đến thể diện hai nước."

Tôi nhận ra gã tướng quân này, lúc đuổi theo tôi và A Độ trên thảo nguyên, chính gã đã tước đao khỏi tay A Độ, hơn nữa còn bắt tôi về doanh trại của đại quân Trung Nguyên. Võ công của gã hẳn rất cao siêu, chắc chắn tôi và gã không phải đối thủ. Lần trước tôi trốn được khỏi đại doanh Trung Nguyên cũng bởi có sư phụ, giờ vắng mặt sư phụ, ai có thể cứu tôi đây?

Tôi nói: "Ta muốn gặp Lí Thừa Ngân."

Gã tướng quân Trung Nguyên đáp rằng: "Tây Lương vương đã hứa gả Công Chúa cho Thái Tử điện hạ, nhằm kết mối thâm giao giữa hai nước. Mà Thái Tử điện hại cũng có thành ý, đích thân người hạ giá đến Tây Vực rước Công Chúa về. Rồi sẽ đến lúc Công Chúa được yết kiến Điện hạ thôi, hà tất phải nhất thời nôn nóng?"

Tôi trơ mắt căm tức nhìn toán binh lính đang siết chặt vòng vây, cha vung đao ngang dọc, song cuối cùng vẫn bị chúng chế ngự. Vương cung xảy ra chuyện lớn là thế, mà không một vệ binh nào đến xem xét, chứng tỏ cả tòa vương thành này từ trong ra ngoài, từ lâu đã bị người Trung Nguyên kiểm soát. Cha bị bọn chúng đè sấp xuống đất, người vẫn lớn tiếng chửi như tát nước. Lồng ngực tôi nóng sùng sục như chảo dầu sôi, sự giày vò đè át lục phủ ngũ tạng, dợm xông lên, thì lũ chúng đã kề đao ngay cổ cha, chỉ cần tôi ho he làm xằng làm bậy gì đó, không biết chừng chúng sẽ giết người ngay tức khắc. Người Trung Nguyên vẫn bảo chúng tôi là lũ man rợ, thế mà chúng giết người còn hung ác hơn cả chúng tôi, tàn bạo hơn hẳn chúng tôi. Khi nước mắt tôi đã mặc sức rơi, gã tướng quân nọ cất lời: 'Công Chúa, xin người khuyên Vương Thượng vài câu, chớ để ngài tự làm thương chính mình." Vậy mà mọi âm thanh đều tắc nghẽn ngay cuống họng, có người nắm cánh tay tôi, là A Độ, những ngón tay nàng ấy mát lạnh chìa ra làm chỗ dựa cuối cùng cho tôi, tôi nhìn nàng ấy, đôi mắt đen láy đổ bóng hình mình, trong ánh mắt đong đầy nôn nóng sốt ruột. Tôi hiểu, chỉ cần tôi nói 1 câu thôi, nàng ấy sẽ chẳng do dự, liều mạng xông pha vì tôi. Song, hà cớ gì? Hà có gì lại còn liên lụy đến cả A Độ? Đột Quyết diệt vong, Tây Lương thì rơi vào tay Trung Nguyên, tôi bảo: "Cấm các ngươi đụng vào cha ta, ta theo các người là được chứ gì."

Cha quả thực đã trở nên lẩm cẩm, nghe nói từ khi mẹ qua đời cha đã thế, có lúc tỉnh táo, có lúc như trong trạng thái mơ hồ. Khi nào minh mẫn, cha lại đòi đánh giết bọn Trung Nguyên, còn lúc lú lẫn, tựa làm những chuyện chưa từng thấy bao giờ. Tôi nghĩ thà rằng cha cứ mãi hồ đồ, mẹ qua đời, trái tim cha cũng chết theo. Các anh trai đã bị giam lỏng, đàn bà con gái trong cung thì hoang mang, lo sợ không yên, còn tôi, tôi vẫn dằn lòng mình.

Thù còn đó, sao mình có thể dễ dàng chết được?

Tôi tiếp nhận chiếu thư của Trung Nguyên, quyết định lấy Lí Thừa Ngân. Trung Nguyên vừa mới bình định Đột Quyết, bọn chúng gấp rút nâng đỡ thế lực mới ngay tại Tây Vực, hòng tránh Nguyệt Thị dàn trải lớn mạnh. Đột Quyết vừa diệt vong, các bộ tộc Tây Vực càng thêm phần hỗn loạn, Hoàng Đế Trung Nguyên hạ chiếu sắc phong Phụ Vương tôi làm Định Tây Khả Hãn, tước hiệu ấy tôn quý không gì sánh được. Lẽ đó mà Nguyệt Thị hết sức không vui, bọn chúng liên quân với Trung Nguyên đánh bại Đột Quyết, thoạt đầu mơ nuốt gọn cả vùng lãnh thổ rộng lớn của Đột Quyết, thế mà Tây Lương lại sắp làm thông gia với Trung Nguyên, các nước chư hầu Tây Vực trước kia ngầm tôn vinh Đột Quyết như 1 nước đứng đầu, nay quay sang tuyệt đối phục tùng có mình Tây Lương.

Khoác lên mình tấm áo cưới đỏ rực mà Trung Nguyên đưa đến, tôi theo đoàn quân hộ tống của Trung Nguyên chầm chầm tiến dần về đằng Đông.

Mãi đến khi chạm chân núi Thiên Hằng, tôi mới được gặp Lí Thừa Ngân. Đáng lẽ, theo phép tắc của Trung Nguyên, vợ chồng chưa cưới không được phép gặp mặt trước lễ thành thân, thế nhưng thực chất chúng tôi đã quen biết từ lâu, vả lại giờ đang trên đường hành quân, mọi việc đều có thể liệu cơm gắp mắm, thế nên sau nhiều bận tôi đòi gặp, cuối cùng Lí Thừa Ngân cũng đến trướng tôi. Tôi tớ lui ra ngoài từ lâu, trong trướng chỉ còn lại có 2 người.

Tôi ngồi trên thảm nỉ, hồi lâu vẫn không cất lời. Cho đến khi hắn trở gót quay lưng, tôi mới nói: "Chàng đồng ý với ta 1 chuyện, ta sẽ cam tâm tình nguyện lấy chàng."

Lưng vẫn xoay về phía tôi, hắn chỉ hỏi: "Chuyện gì?"

"Chàng gom cho ta 100 con đom đóm."

Bóng hắn cứng đờ, sau cùng mới chậm rãi xoay người nhìn tôi. Thậm chí lúc đó tôi đã cười: "Cố Tiểu Ngũ, chàng bằng lòng vậy không?"

Đôi mắt ấy vẹn nguyên ánh nhìn như một buổi tối nọ bên bờ sông, thế nhưng chẳng còn nữa sự ôn tồn, mọi thứ xưa kia rặt phỉnh lừa huyễn hoặc, lòng tôi đã biết từ lâu. Còn hắn thì sao? Bấy lâu nay diễn kịch, dễ chừng cũng thấy mệt mỏi rồi chăng.

"Trời đã vào đông rồi, không có đom đóm nữa." Cuối cùng, hắn mở lời, giọng bỉnh thản như chưa từng có sóng gió, "Trung Nguyên rất vui, có đóm đóm, có chim nhỏ xinh xẻo, có rất nhiều loài hoa đẹp, phòng cũng khéo bày, rồi nàng sẽ thích Trung Nguyên."

Tôi chăm chăm nhìn hắn, mà hắn lại né tránh cái nhìn của tôi.

Tôi hỏi: "Chàng đã bao giờ thật lòng thích ta chưa? Dù chỉ chút cỏn con thật lòng?"

Hắn không đáp lời, thẳng tay vén mành rồi cứ thế rảo bước khỏi lều.

Tuyết theo gió thốc vào, gió gợn hơi lửa ảm đạm nơi chậu sưởi đặt sẵn trong lều, lửa bập bùng, thoáng đó lại tắt. Trời vào đông dậy cơn buốt cóng thế đấy.

Tôi và A Độ bỏ trốn lúc nửa đêm, Lí Thừa Ngân đích thân dẫn ba ngàn kỵ binh truy đuổi, chúng tôi bỏ chạy vào núi, thế mà chúng vẫn theo sát nút ngay sau lưng.

Tầm tảng sáng, tôi và A Độ leo lên một vách núi cao và dốc.

Ẩn náu lâu ngày trên núi, chúng tôi thường xuyên gặp phải lũ sói. Từ ngày vua sói bị bắn chết, lũ sói mất đầu đàn, lâm vào cảnh giao tranh kịch liệt. Mỗi bận đụng độ đàn sói, chúng chỉ lo cắn xé lẫn nhau, hoàn toàn không còn gây hấn với loài người, tôi nghĩ có thể Trung Nguyên đã dùng cách này đối phó với Tây Vực. Bọn chúng tiêu diệt Đột Quyết, cũng như giết đi con sói đầu đàn, thế rồi những bộ tộc còn lại sẽ lao vào giành giật lẫn nhau, chém giết cùng nội chiến liên miên...Sẽ chẳng còn bộ tộc nào nhăm nhe Trung Nguyên nữa, tất cả có khác gì bầy sói kia, họ chỉ lo tàn sát đồng loại, tranh đoạt ngôi vị vua sói, đâu còn là mối nguy hại với con người nữa.

Tiếng áo quần no gió chà vào nhau nghe phần phật, tôi đứng bên vách đá, gió sương quất đến độ khó mở nổi mắt. Nếu như reo mình xuống từ đây, rồi chăng thảy những buồn đau sẽ như vết khói mờ loãng dần trong hư vô.

Lí Thừa Ngân đã bắt kịp tới nơi, tôi giật lùi phía sau một bước, tướng quân dẫn binh phe Trung Nguyên lo tôi nhảy thật, tôi nghe tiếng hắn nói: "Bẩm Điện hạ, xin người cho phép thần lên khuyên Công Chúa."

Suốt chặng đường hành quân, tôi cũng hiểu sơ sơ vài câu Trung Nguyên, tôi còn biết vị tướng quân người Trung Nguyên này họ Bùi, và còn là đại tướng mà Lí Thừa Ngân tin tưởng nhất. Thế nhưng giờ đây, ngay cả Bùi tướng quân cũng không khuyên nổi Lí Thừa Ngân, tôi nom Lí Thừa Ngân phất cương xuống ngựa, leo thẳng lên vách đá.

Tôi cũng không cản hắn, chỉ lặng lẽ dõi theo hắn trèo lên vách đá. Gió reo như tiếng nức nở, mây mù lượn ngang khe núi, chẳng biết rốt cuộc vực sâu chừng là bao. Hắn đứng bên bờ vực, hơi thở dồn sau cả chặng đường vội vã. Tôi chỉ xuống vực sâu, hỏi: "Chàng biết dưới đấy là gì không?"

Chừng như gió tuyết giật đùng đùng làm lộ vẻ nhợt nhạt trên khuôn mặt hắn, gió thốc hạt tuyết quất vào mặt ran rát. Tôi vuốt nước bám trên mặt, rất có thể hắn không biết nên nói gì với tôi, thế nên chỉ lẳng lặng làm thinh. Tôi nói với hắn: "Dưới đó có sông Quên."

"Nước sông Quên, đặng quên tình... Ở Tây Vực có 1 truyền thuyết, có lẽ xưa nay chàng chưa từng nghe, truyền thuyết kể chỉ cần nhảy xuống sông Quên, là con người ta sẽ quên đi tất cả phiền muộn chốn nhân gian, thay da đổi thịt, làm lại cuộc đời. Thần kì lắm, vậy nhưng thánh thần lại có sức mạnh như thế đấy, nước thần sẽ rũ sạch đau khổ trên thân chúng ta, nước thần cũng cho phép chúng ta quên đi muộn phiền, song trước nay chưa một ai có thể sống sót trở về từ sông Quên, sự quan tâm của thần thánh, nhiều khi rất đỗi tàn nhẫn... Chàng lấy anh em của ta ra uy hiếp ta, ta buộc phải đồng ý lấy chàng." Thậm chí tôi đã cười với hắn, "Ngặt nỗi, muốn sống muốn chết, chính ta mới là người quyết định."

Hắn nhìn tôi chăm chăm, đoạn bảo: "Nếu như nàng dám manh động, ta sẽ mai táng cả Tây Lương theo nàng."
"Điện hạ sẽ không làm vậy đâu." Tôi bình thản nói, đấy là lần đầu tiên tôi gọi hắn là điện hạ, mà có lẽ cũng là lần sau cùng, "Điện hạ có chí lớn muốn bình định Tây Vực, thống nhất thiên hạ, chẳng sự nào bì được với sự nghiệp muôn đời hưng thịnh của Điện hạ. Đột Quyết vừa ổn định xong, Nguyệt Thị đương hùng mạnh, Điện hạ vẫn cần Tây Lương để giữ chân Nguyệt Thị, mà cũng cần Tây Lương để tỏ rõ tấm lòng của Điện hạ cho các nước khác xem. Điện hạ dùng thủ đoạn nham hiểm dẹp yên Đột Quyết, nhưng lại mở tấm lòng từ bi hòng vỗ về Tây Lương. Thái Tử thiên triều cao quý mà lại hạ mình cưới một cô công chúa Tây Lương man di về làm chính phi ư, các nước chư hầu Tây Vực hẳn sẽ bị Điện hạ làm lay động mất thôi." Tôi giễu hắn bằng cái nhìn mỉa mai, "Nếu như Điện hạ tàn sát cả Tây Lương, những thứ mất đi không chỉ có mình Tây Lương bé cỏn con đâu, mà còn có tất thảy những gì chàng vất vả tốn sức bấy lâu nay."

Lí Thừa Ngân nghe tôi nói thế, sắc mặt hơi đổi khác, cuối cùng hắn không cưỡng được mình tiến lên một bước, tôi lại lùi phía sau một bước. Bàn chân đã chạm vào trống rỗng hư không, gió vách núi lay tôi chực đứng không yên, đong đưa như thể sẽ rơi xuống bất cứ lúc nào, gió vẫn giật áo quần bay phần phật, gấu tay áo như một lưỡi dao mỏng dính, không ngừng quẹt trên cánh tay. Hắn không còn dám dồn ép nữa, tôi bảo hắn rằng: "Trước kia ta nhìn lầm chàng, giờ đây mới sinh ra nước mất nhà tan, là trời phạt ta phải chịu nỗi này." Tôi nhấn từng chữ nói: "Muôn đời muôn kiếp, rồi mãi mãi về sau ta sẽ quên được chàng!"

Lí Thừa Ngân kinh hãi, vươn người toan túm lấy tôi, thế nhưng chỉ giữ được ống tay áo. Tôi giơ tay trái, lưỡi dao sắc lẹm trên tay cắt xẹt cánh tay áo, nửa người tôi đã lơ lửng giữa không trung, Lí Thừa Ngân ứng biến rất nhanh, dải dây lưng rút ra, vươn dài như chiếc roi xoắn lấy thân tôi, treo tôi lưng chừng vực sâu. Dải dây ấy ngày hôm đó chính tôi thắt cho chàng, dải dây lưng của tân nương ngày cưới vốn nạm chi chít san hô và ngọc trai...

Tôi từng khao khát thứ hạnh phúc bền lâu đến đầu bạc răng long, tôi từng tưởng thế là vĩnh hằng, tôi từng ngỡ, chính thánh thần se duyên cho tôi yêu con người này... Trước lúc chàng rời đám cưới lên đường ra trận, tôi từng tự tay thắt chiếc dây lưng ấy lên người chàng, lòng nhủ thầm vô vàn những yêu thương cùng lòng cảm mến, mong sao chàng sẽ bình yên trở về, rồi cũng chính tay chàng thắt cho tôi dây lưng của mình... đến lúc ấy, chúng tôi sẽ là một đôi vợ chồng dưới sự chứng giám của thánh thần...

Tôi vung con dao nhỏ trên tay, cắt lìa sợi dây, gió núi qua khe gập ghềnh, ngọc trai rỡ ràng lắc rắc tuôn rơi như là giọt mưa... tôi thấy rõ vẻ mặt chàng lúc ấy khổ sở đớn đau muôn vàn...

Tôi khẽ ngả mình ra sau, thế là cả người đã buông rơi. Nhiều kẻ đang hoảng sợ kêu gào, bao gồm gã Bùi tướng quân người Trung Nguyên kia, giọng hắn nghe kinh hãi hơn cả: "Điện hạ..."

Thảy những thứ trên vách đá thoáng chốc đã khuất khỏi tầm mắt, chỉ còn trông sắc trời trong veo...cứ ngỡ như gió nâng mây, thân mình trơn tuột qua những tầng sương mù, cơ thể quay cuồng, mặt lật úp chẳng còn thấy trời đâu, gió liên miên đâm chọc khiến mắt không tài nào hé được. A Độ kể cho tôi nghe dưới này chính là sông Quên, thế nhưng sông Quên sẽ thế nào? Là một cái đầm nước xanh biếc ư? Hay là cả 1 con sông sâu dư sức nuốt gọn con người vĩnh viễn... tuyệt vọng trống rỗng bủa vậy ngay thoáng chốc, tôi nhớ mẹ, ngẫm mình đi gặp mẹ thế này, hóa ra cũng hay thật. Tôi đã nản lỏng lắm rồi, trần đời này duy có mẹ là người yêu thương tôi nhất.

Bỗng có người nắm lấy tay tôi, gió ào ào lướt qua vành tai, người đó ôm tôi vào lòng, gió đưa chúng tôi lao xuống mỗi lúc một mau.... Chàng ôm tôi giữa vòng gió xoáy....nhiều lần toan chụp mỏm đá vách núi, nhưng chúng tôi rơi quá nhanh, đá vụn lả tả chung rơi cùng tôi và chàng, chẳng khác nào một chùm sao rơi rụng như mưa sa.... chẳng khác nào buổi tối hôm ấy ở ven sông, vô vàn đom đóm cất cánh vút bay từ ống tay áo, dường như có cơn mưa sao rực rỡ, soi tỏ khuôn mặt chàng và tôi... giữa đất trời này riêng có chàng đắm đuối nhìn tôi...

Đôi mắt ấy chỉ đong đầy bóng hình tôi..

Tôi có nằm mơ cũng nào từng nghĩ, chàng sẽ nhảy xuống chụp lấy tôi, tôi cứ ngỡ, xưa nay chàng chẳng hề có lấy mảy may thật lòng.

Chàng gọi: "Tiểu Phong!" gió lướt qua vành môi thổi bạt giọng chàng, nhẹ đến nỗi chẳng lọt vào tai. Tôi nghĩ, hẳn mình nghe nhầm rồi chăng, hoặc thoảng, tất cả vốn là ảo giác. Chàng tuyệt đối sẽ không nhảy xuống đâu, vì chàng là Lí Thừa Ngân, chứ nào phải Cố Tiểu Ngũ của tôi, Cố Tiểu Ngũ của tôi đã chết từ lâu lắm rồi, chàng đã bỏ mạng chính trong cái đêm quyết chiến với Nguyệt Thị và Trung Nguyên.

Chàng nói một câu bằng tiếng Trung Nguyên, tôi chẳng thể hiểu nổi.

Câu nói cuối cùng còn đọng lại trong hồi ức, mà có lẽ chàng đuổi theo tôi xuống tận đây chỉ để nói với tôi câu đó, rốt cuộc chàng đã nói gì, tôi cũng chẳng còn muốn biết nữa đâu... Tôi chỉ cảm thấy thanh thản mà bình tĩnh, tôi biết khoảnh khắc sau cùng, tôi không hề lẻ loi một mình...Thân thể nặng trĩu lẳng mình trong nước, nước xanh biếc vây hãm bốn bề, đau tựa ngàn nhát dao sắc lạnh xẻ dọc da thịt. Đành rằng vậy, tôi thả lòng buông xuôi mọi vật lộn, phó mặc thân mình lắng xuống đáy nước sâu, như đứa con trở về với mẹ, như bông hoa nhỏ xinh đáp xuống mặt đất, là một cõi đi về rất đỗi bình yên trong tôi, bấy lâu nay tôi vẫn luôn hiểu. .

"Nước sông Quên, đặng quên tình..."

...

"Có con cáo nhỏ ngồi trên cồn cát, ngồi trên cồn cát, ngắm nhìn ánh trăng. Ô....thì ra không phải nó đang ngắm trăng, mà đang đợi cô nương chăn cừu trở về.....Có con cáo nhỏ ngồi trên cồn cát, ngồi trên cồn cát, sưởi nắng.....Ô.... thì ra không phải nó đang sưởi nắng, mà đang đợi cô nương cưỡi ngựa đi qua....."

"Khó nghe thế! Đổi bài khác đi!"

"Nhưng ta chỉ biết mỗi bài này..."

...

"Muôn đời muôn kiếp, rồi mãi mãi về sau ta sẽ quên được chàng!"

...

Trong ký ức có đốm sáng lập lòe lúc tỏ lúc mờ, dường như tấm màn bụi mù dày đặc dần nhạt phai, lộ ra cảnh bọt nước hư ảo. Và bỗng nhiên, tôi hấp hé mở mắt, sự vật rồi cũng rõ từng đường nét. Tôi thấy A Độ, nàng ấy ngay gần bên tôi, tôi thấy cả Vĩnh Nương, vành mắt bà ấy đỏ quạch, hơi hơi sưng.

Tôi thấy trên màn thêu hoa văn tinh xảo, tôi từ từ nhận ra, nơi đây là Đông Cung, là tẩm điện của mình.

Tôi tử từ thở ra hơi, cảm thấy mình như vừa nằm mơ một cơn ác mộng, trong cơn mộng gặp những điều đáng sợ: tôi bị thích khách bắt cóc, rồi gã thích khách nọ lại là Cố Kiếm, tôi đứng ở Thừa Thiên Môn, mắt đăm đăm nhìn lên thành lầu nơi Lí Thừa Ngân dang đứng...Và điều kinh khủng cuối cùng, tôi mơ thấy mình quen biết Lí Thừa Ngân từ lâu, chàng hóa thành Cố Tiểu Ngũ, chàng tàn sát Đột Quyết, giết ông ngoại, còn dồn mẹ tôi vào đường chết...Phụ Vương trở nên lẩn thẩn, mà tôi nhảy xuống sông Quên...cơn ác mộng ấy thật đáng sợ.. đáng sợ đến độ tôi không hề muốn nghĩ đến nữa...

May thay tất cả chỉ là ác mộng, tôi từ từ nắm chặt tay Vịnh Nương, cười với bà ấy, dợm bảo: "Ta đói lắm..."

Thế mà chẳng thốt nổi câu nào, cổ họng nhói đau, luồng khí trong cổ thoát ra ngoài, mà không bật thành tiếng. Tôi cuống cuồng dùng tay bóp cổ mình, Vĩnh Nương ứa nước mắt giữ tay tôi: "Thái Tử Phi chớ lo, Thái Y nói người bị ngạt khói, nên tạm thời cổ họng bị bỏng. Từ từ chữa sẽ khỏi thôi..."
Tôi nom A Độ, rồi lại nom Vĩnh Nương, cung nữ dâng một chén nước mát, Vĩnh Nương tự tay đút cho tôi, nước có vị ngọt và mùi man mát làm tôi thấy dễ chịu hơn, cơn đau họng chẳng mấy đã dịu xuống. Tôi nuốt hẳn ngụm lớn, Vĩnh Nương bảo: "Chậm thôi, chậm thôi... kẻo sặc...trời...mấy ngày rồi chẳng có giọt nước vào người...quả thực khiến nô tì lo xém chết..."

Mấy ngày?

Tôi đã ngủ mấy ngày rồi?

Tôi ra hiệu bảo lấy giấy bút, Vĩnh Nương sai người lấy hộ tôi, cung nữ dâng nghiên mực, tôi chấm mực, nhưng lúc hạ bút, bỗng dưng do dự.

Viết gì đây?

Tôi định hỏi gì đây? Hỏi Đột Quyết phải chăng đã diệt vong thật, hỏi Phụ Vương tôi, phải chăng bấy lâu nay đã thành người lẩn thẩn? Từ ngày đến Trung Nguyên, cha chưa từng phái người đến thăm tôi, trong khi ngày đêm tôi chỉ mong về Tây Lương, thế mà chẳng ai đến thăm hỏi. Trước kia thì tôi chẳng lấy làm lạ, trước kia tôi chỉ trách cha vô tình, giờ tôi mới biết, thì ra, Tây Lương của tôi từ lâu đã chỉ còn là giấc mộng hão huyền. Tôi tuyệt nhiên không dám hỏi A Độ, sao tôi dám đây, sao tôi dám hỏi Vĩnh Nương?

Mãi lâu tôi không hạ được bút.

Mực trên ngòi bút ngưng tụ bao lâu, cuối cùng nhỏ xuống "tóc" một tiếng đáp mình trên trang giấy, tóe lên một đốm mực.

Bỗng trong đầu hình dung thấy "Cửa vẩy mực", nhớ cái cảnh Lí Thừa Ngân từng lấy bột yến, than kẻ mày vẽ bức non sông tráng lệ, tôi nhớ phường Minh Ngọc, nhớ lại điệu múa tối nọ, nhớ cảnh chết chóc tàn khốc tối đó... Tôi nhớ chàng bẻ đôi tên nhọn, cao giọng thề... Tôi nghĩ về cuộc chiến đẫm máu mà đầy chân thực trong mơ, tôi thấy mình ngồi hát trên cồn cát, tôi nghĩ đến Cố Tiểu Ngũ từng gom cho tôi 100 con đom đóm, cơn gió buốt xương trên bờ sông Quên hẵng còn đây... Và sắc mặt chàng đau đớn ngay lúc tôi vung dao cắt lìa dải dây lưng...

Tôi gác bút, rồi vội vã chui tuột vào chăn, tôi sợ mọi thứ hiện về tìm tôi trong trí nhớ.
Vĩnh Nương tưởng tôi vẫn thấy khó chịu trong người, liền xoa nhẹ lưng tôi như vỗ về ru ngủ một đứa nhỏ.

A Độ đã ra ngoài, tiếng đưa chân se sẽ mà tôi vẫn để ý thấy.

Bỗng dưng thấy khó chịu lắm, thậm chí tôi không dám dặm hỏi A Độ, hỏi về Đột Quyết, hỏi về những chuyện trước đây, những chuyện đã nhớ ra trong mơ kia liệu chăng là thật? A Độ hẳn sẽ buồn hơn tôi, hiển nhiên vì nàng ấy là người Đột Quyết, ấy thế mà lại theo tôi đến Trung Nguyên, cùng tôi chung sống với kẻ thù bấy lâu nay... Tôi trở thành 1 kẻ hèn nhát xưa nay chưa từng có, tôi chẳng hay biết một cái gì.

Tôi chập chờn ngủ một giấc kéo dài đến tầm tối thì Vĩnh Nương lay tôi dậy, bón cho tôi bát thuốc đắng kinh người.

Rồi Vĩnh Nương hỏi tôi có thèm món gì chăng.

Tôi lắc đầu, tôi chẳng buồn ăn.

Còn thiết ăn gì bây giờ nữa?

Vĩnh Nương vẫn sai người làm món bánh canh, bà ấy nói: "Bánh canh mềm lại có nước, người ốm ăn cái món này vào là hợp lắm đây."

Tôi không muốn ăn bánh canh, gắp một đũa rồi buông ngay.

Bánh canh gợi lên hình ảnh của Lí Thừa Ngân.

Mà thực chất mọi thứ ở Đông Cung này đều gợi nhắc cho tôi nhớ Lí Thừa Ngân.

Tôi chỉ mong sao mình đừng nghĩ ngợi về chàng nữa. Chẳng kể những chuyện trước kia thật giả thế nào, tôi hoàn toàn không muốn gặp lại chàng.

Thế mà muốn tránh cũng không được, lúc Lí Thừa Ngân đến thăm, Vĩnh Nương vừa mới bưng bát bánh canh xuống, chàng hồ hởi bước vào, nét mặt rạng cười như thể là trước kia, riêng mình tôi biết, tất cả đã khác xưa rồi. Giữa chúng tôi đã tồn tại một quá khứ đớn đau, dòng sông Quên thần kì cho tôi quên đi tất cả, mà cũng lấy đi trí nhớ của chàng, chúng tôi ngây ngô dại dột, chẳng hiểu sự nào run rủi cho chúng tôi lấy nhau thế này. Và tôi ngây ngô dại dột thế nào mà đã ở bên chàng suốt 3 năm...

Lúc tôi còn nghĩ ngợi thì Lí Thừa Ngân đã rảo bước đến bên giường, tay dợm xoa trán tôi.

Tôi nghiêng mặt tránh né.

Tay chàng chưng hửng giữa chừng, song cũng chẳng lấy làm giận, mà bảo: "Cuối cùng nàng cũng tỉnh rồi, thật làm ta lo quá."

Tôi đưa mắt nhìn chàng, nét dửng dưng như những người xa lạ với nhau. Cuối cùng chàng nhận ra điều khác thường, hỏi tôi: "Nàng sao rồi?"

Chàng nom tôi không để ý đến chàng, liền nói: "Hôm nàng bị thích khách bắt cóc, lại trùng với tết Nguyên Tiêu, nên chín cổng thành đều phải mở..."

Tôi chỉ cảm thấy có cơn bực mình không nói nổi. Bữa đó dáng chàng đứng trên cổng lầu ra sao tôi cũng quên từ lâu rồi, thế mà bóng hình chàng ngày đứng bên vực sông Quên, chỉ sợ nó sẽ khắc sâu trong tim tôi đến trọn đời. Giờ đây nói những chuyện ấy ích gì? Chàng còn định dỗ ngon dỗ ngọt lừa tôi nữa sao? Chàng đã rũ sạch những chuyện trước kia rồi, thế nhưng tôi lại nhớ ra, tôi đã nhớ lại cả rồi đây!

Chàng bảo: "... mấy ngày lục soát khắp nơi trong thành mà không tìm ra nàng, ta cứ tưởng..." nói đến đó, giọng chàng trầm thấp dần, đoạn bảo, "Ta cứ tưởng sẽ không còn gặp lại nàng nữa..."

Chàng giơ tay định kiếm tìm bờ vai tôi, tôi nhớ đôi mắt sũng lệ chập chờn của cha, tôi nhớ mẹ tôi ngã trên vũng máu, tôi nhớ tiếng gào thét cuối cùng của ông, tôi nhớ đôi bàn tay dính máu của Hách Thất đã đẩy tôi lên lưng ngựa... Thế rồi thoắt cái tôi đã rút cây trâm búi tóc, nhắm đâm ngực chàng thật mạnh.

Tôi dồn tất cả sức lực vào nhát đâm ấy, trước đó, chàng hoàn toàn chẳng đoán biết tôi sẽ đâm bất thình lình, chàng ngây ra, tận lúc sau cùng mới giơ tay chặn trước ngực theo bản năng. Đầu trâm nhọn hoắt chọc xuyên lòng bàn tay, máu ri rỉ ứa, chàng sững sờ nhìn tôi, ánh mắt ấy phức tạp tôi không cắt nghĩa được, tựa như chàng không tin tôi lại có hành động này.

Thực ra, chính tôi cũng không tin, tôi ấn ngực mình, cảm giác cơ thể đang run rẩy.

Thời gian trôi bao lâu, chàng mới nắm chặt đầu trâm, rút thật mạnh. Chóng vánh, mà không hề rên lấy một tiếng, chỉ có đôi chân mày khẽ chụm đầu lại, như thể đây vốn chẳng phải cơ thể của mình. Máu ứa ra tức thì, tôi nhìn máu đầm đìa chảy dọc theo cổ tay dính vào ống tay áo, dòng máu đỏ thắm uốn khúc như một thân rắn con nanh ác trườn mình trên vải vóc. Chàng cầm chiếc trâm còn vương máu, đoạn nhìn tôi, lòng tôi gợn cơn hốt hoảng như thể hụt hơi.

Chàng quẳng cây trâm xuống đất đánh "keng" một tiếng, chuỗi thạch anh rủ mình văng bốn hướng, lanh canh đập nẩy trên sàn. Tiếng chàng hỏi se sẽ, như sợ làm kinh động thứ gì: "Sao lại thế?"

Chàng bảo tôi phải nói thế nào, kể ra những chuyện kinh khủng đã qua ư? Tôi và chàng, giữa đôi ta là ân oán, là đôi bờ cách trở bởi biển máu hận thù. Thì ra lãng quên không hẳn là bất hạnh, có khi may mắn đích thực lại là nó. Ước gì tôi có thể quên như chàng thì tốt biết mấy.

Tôi ngoảnh mặt né, chàng lại cất lời: "Ta hiểu rồi."

Tôi chẳng rõ chàng hiểu gì, nhưng thoáng nghe trong giọng chàng có nét lạnh lùng: "Bởi nàng bệnh đến nông nỗi này nên ta vốn cũng chẳng muốn hỏi tới. Nhưng một khi đã vậy, ta buộc phải hỏi câu này, sao nàng thoát được tay thích khách? Lúc A Độ ẵm nàng về, có hỏi thế nào ả cũng không chịu tiết lộ hành tung của thích khách, càng không chịu khai ra đã cứu nàng ở đâu. Ta không tiện dùng hình truy cứu dân Tây Lương các nàng. Nhưng thế nào thì nàng cũng phải nói cho ta hay, rốt cuộc kẻ nào đã giật dây sau lưng thích khách..."

Tôi nhìn gã đàn ông này, người đã ôm tôi nhảy xuống sông Quên, chàng đã quên thật rồi, thế nhưng tôi vĩnh viễn không thể quên được, tôi không quên được chính chàng đã giết ông ngoại, tôi không quên được chính chàng khiến tôi chịu cảnh nước mất nhà tan, tôi không quên mình giờ đây chẳng còn Tây Lương để về. Tôi nhếch miệng song chẳng hề lên tiếng, gần như chỉ ném ra cái nhìn mỉa mai. Chàng lại hỏi tôi thích khách là ai cơ đấy? Lẽ nào thích khách là ai chàng không biết ư? Hay từ lúc nhảy xuống sông Quên xong, chàng cũng không nhớ nổi Cố Kiếm là ai nữa rồi?

Tôi nhìn chàng, ánh mắt chúng tôi chạm nhau, bẵng đi bao lâu, rất lâu, chàng bỗng ném ngay trước mặt tôi 1 đôi ngọc bội. Tôi giương mắt nhìn đôi ngọc có màu mỡ cừu, tôi biết chúng, tôi từng cầm chúng ngồi chẵn tròn 3 ngày 3 đêm trên đồi cát. Lúc ấy chàng còn xưng mình là Cố Tiểu Ngũ; lúc ấy tôi rạo rực ngồi đợi miết người tôi nghĩ sắp là chồng mình; lúc ấy lòng bàn tay chàng cầm đôi ngọc bội, mỉm cười ghẹo tôi; lúc ấy sắc đêm trong trẻo phủ trùm hoang mạc Tây Lương, và chúng tôi cùng nhau giục ngựa trở về Vương thành.

Dạo đó, mặt mũi đôi ta nào có thù nghịch như bây giờ. Lúc ấy tôi vẫn là cửu công chúa vô tư lự của Tây Lương, mà chàng, chàng là Cố Tiểu Ngũ buôn chè đến từ Trung Nguyên.

Tay Lí Thừa Ngân còn đương ứa máu, chàng siết chặt cánh tay tôi, chặt đến nỗi xương cốt nhói đau nhức nhối. Ép tôi phải ngước lên, nhìn xoáy vào mắt tôi, hỏi: "Tại sao?"

Chàng lập đi lập lại, tại sao?

Tôi cũng muốn biết, tại sao, tại sao số kiếp lại bỡn cợt, hết lần này đến lần khác dồn chúng tôi vào mối quan hệ đoạn tuyệt này. Tôi nhìn trong mắt chàng có sự khổ sở khó nói nên lời mà thoáng vương tia khát khao cuối cùng, dường như còn mong mỏi tôi sẽ nói ra câu gì.

Tôi hé môi, song vẫn nín lặng.

Máu bàn tay chàng thấm trên mặt tôi âm ấm, chứ không hề nóng hôi hổi, chàng bảo: "Cớ sao nàng bình yên vô sự trốn khỏi tay thích khách, sao A Độ lại không chịu nói cho ta biết hành tung gã thích khách kia, sao trong tay nàng lại có đôi ngọc bội uyên ương này...uyên ương uyên ương cơ à... ta chia cắt đôi uyên ương các người rồi phải không?"

Chàng siết mạnh vai khiến tôi đau nhói, bỗng đâu thấy nguội lạnh trong lòng, lúc ở sông Quên, rốt cuộc chàng nghĩ gì mà lại nhảy xuống với tôi? Phải chăng chỉ để nói với tôi 1 câu đó? Nhưng dạo ấy tôi có biết tiếng Trung Nguyên đâu. Tôi quên mất câu ấy là gì từ lâu rồi. Tôi chỉ nhớ tiếng hét cuối cùng của Bùi Chiếu, chắc hắn phải kinh hãi lắm. Chung quy Lí Thừa Ngân không phải là Cố Tiểu Ngũ, có lẽ, Cố Tiểu Ngũ của tôi đã bỏ mạng trong cuộc chiến ngày đó từ lâu rồi. Cuối cùng, tôi ngước mắt trông lên đôi con ngươi đen láy đổ ngược bóng hình mình. Rút cuộc chàng là ai? Là Cố Tiểu Ngũ từng bắt 100 con đom đóm cho tôi ư? Hay là người chồng đã lên đường ra trận vào đúng ngày cưới của chúng tôi? Có lẽ, lúc ở sông Quên, vẻ hối hận trên khuôn mặt chàng khi thấy tôi cắt lìa dải thắt lưng, liệu chăng chẳng có thật?

Hết lần này đến lần khác tôi bị gã đàn ông này lừa, cho đến tận lúc này đây, có trời mới biết rốt cuộc chàng có lừa tôi không? Chàng bẻ tên thề với thích khách, nói những lời hùng hồn đầy lý lẽ đấy, thế mà thoắt một cái, chàng đã đứng trên Thừa Thiên Môn với Triệu Lương Đệ...Cố Tiểu Ngũ của tôi thực sự đã chết từ lâu rồi, chớm nghĩ thôi mà tôi đã thấy lòng quặn thắt. Tiếng tôi vụn vỡ, đáng sợ như thể đây thật sự không phải tiếng mình. Tôi nói: "Chính chàng chia lìa đôi ta, chính chàng chia lìa ta—và Cố Tiểu Ngũ."

Chàng thảng thốt trong bao lâu, rồi lại phá ra tiếng cười khinh miệt: "Cố Tiểu Ngũ à?"

Tôi nhìn chàng, máu từ tay chảy ròng xuống áo bào. Lúc đứng bên vực sông Quên, tôi thấy lòng mình đã hóa tro tàn, thế mà giờ khắc này đây, tôi chẳng còn sức lực để vùng vẫy. Tôi thấy bải hoải, tôi thấy rã rời, tôi mệt mỏi lắm rồi, tôi chỉ nhả từng chữ: "Chàng giết Cố Tiểu Ngũ mất rồi."

Cố Tiểu Ngũ của tôi, chàng giết người duy nhất tôi từng yêu mất rồi. Chàng giết Cố Tiểu Ngũ ngay chính trên mảnh đất Đốt Quyết, Cố Tiểu Ngũ bỏ mạng ngay khi hôn lễ của chúng tôi còn dang dở, chàng ấy đã chết ngay tại Tây Lương.

Tôi ngu ngơ mới quên tất cả những chuyện trước kia, để rồi đến nơi này, để rồi lấy Lí Thừa Ngân. Mà đôi ta đều quên sạch quá khứ, thậm chí tôi còn không biết Cố Tiểu Ngũ đã mất rồi.

Cơn giận của chàng ta hóa thành tràng cười: "Được! Được! Được lắm!"

Thế rồi chẳng đảo mắt nhìn lấy 1 cái, đã quay người bỏ đi.

Lúc Vĩnh Nương quay lại thì kinh ngạc lắm, bảo: "Sao Điện hạ đã đi rồi nhỉ?" tức thì bà ấy thất thanh kêu lên: "Úi trời, sao dưới sàn nhiều máu thế này..."

Bà ấy gọi cung nữ vào lau dọn, sau đó lải nhải hỏi dồn tôi rút cuộc đã xảy ra chuyện gì, tôi không muốn cho bà ấy biết, nên tôi thừ người mặc bà ấy giày vò lên giày vò xuống. Tôi phải làm sao đây? Tôi còn về được Tây Lương không? Cứ cho như tôi về được Tây Lương, nhưng Cố Tiểu Ngũ chết thì cũng đã chết rồi.

Vĩnh Nương nghĩ chắc tôi mệt muốn ngủ, liền thôi không truy hỏi nữa. Bà ấy gọi A Độ vào ngủ với tôi, A Độ vẫn theo lệ cũ nằm dưới thảm trải trước giường tôi.

Song tôi không tài nằm chợp mắt được, tôi bật dậy, A Độ cũng dậy theo, lại tưởng tôi khát nước nên đi rót cho tôi một tách trà,

Tôi không cầm tách trà đó, mà kéo tay nàng ấy viết mấy chữ vào lòng bàn tay.

Tôi hỏi, chúng ta về Tây Lương nhé?

A Độ gật đầu.

Thế là tôi thấy an tâm vô cùng, tôi đi đâu thì cô bé này theo đó. Tôi không biết trước kia nàng ấy từng chịu nhiều gian khổ đến thế, thậm chí tôi cũng không rõ vì sao nàng ấy lại cam tâm tình nguyện theo tôi đến đây. Tôi níu tay nàng ấy, ngơ ngẩn rồi bỗng rỏ giọt nước mắt. A Độ nom tôi khóc thì bối rối lắm, liền dùng gấu tay áo lau nước mắt tôi, tôi lại viết vào lòng bàn tay nàng ấy, đừng lo. Chừng như A Độ xót ruột lắm, nàng ấy ôm tôi vào lòng, nhẹ xoa đầu tôi với cái kiểu dỗ dành một đứa trẻ. Cứ an ủi như thế rồi tôi cũng dần chợp được mắt.

Thực ra, trong thâm tâm tôi biết rằng, thế là tôi xong đời rồi. Trước kia tôi thích Cố Tiểu Ngũ, sau khi mất trí nhớ, tôi lại thích Lí Thừa Ngân. Dù chàng ta lừa tôi từ đấu chí cuối, thế mà tôi vẫn cứ yêu chàng.

Nước sông Quên, đặng quên tình. Hễ ai dầm mình trong dòng nước thánh thần, kể từ đó về sau đều quên sạch tất cả những chuyện đau khổ từng trải. Tôi quên chàng, chàng cũng quên tôi, đôi ta không còn vướng bận tiền duyên. Thế nhưng, tại sao sau khi đã quên được rồi, mà trái tim tôi lại vẫn yêu chàng? Trước kia chàng đối xử với tôi tệ bạc, song tôi không ngăn được mình thích chàng. 3 năm chúng tôi không chỉ một lần đẩy nhau ra thật xa, cớ gì lại đến bước đường ngày hôm nay? Thánh thần đã từng nghe lời khẩn cầu của tôi, để tôi được quên đi những khổ đau những sầu muộn chàng chất chồng trên thân mình. Thế mà ngày hôm nay Thánh thần lại đang trừng phạt tôi chăng? Người khiến tôi nhớ lại tất cả, con tạo trớ trêu xoay vần đưa đẩy tôi lại lần nữa yêu chàng.

Kể từ đó Lí Thừa Ngân không lại chỗ tôi nữa.

Tôi ốm dai dẳng một thời gian, mãi đến khi mở miệng nói được, thì ngọc lan ngoài hiên đã héo rũ, mà anh đào trong đình đuơng rộ phớt hồng như mây.

Cũng bởi anh đào trổ bông sớm hơn cây đào cây mận, nên hoa vừa đơm đó thôi mà đã khiến đất trời tràn ngập khí xuân. Sân vườn có mấy gốc anh đào đương độ sum suê, hoa nở chen cụm chen cành, bung màu như gấm vóc trơn truột, như mây bồng bềnh, như lụa hững hờ đậu dưới mái hiên, có đôi cành nhô đầu qua ô cửa sổ.

Lúc tôi còn đương ốm nằm một chỗ thì ngoài kia đã phát sinh một đống truyện, thảy là do Vĩnh Nương kể tôi mới hay. Thoạt đầu, Thủ Phụ(*) Diệp Thành bị vạch tội mua quan bán tước, thế rồi nghe bảo vụ việc lần này có liên quan sâu rộng, chỉ một thời gian ngắn mà trong triều ai nấy đều nơm nớp bất an, chỉ lo mình bị vu tội "kết bè kết đảng với nhà họ Diệp". Rồi đợt này mừng đại tướng quân Bùi Huống ca khúc khải hoàn trở về kinh kỳ sau cuộc chinh phạt Cao Ly, bệ hạ đã ngự ban không ít vàng bạc. Thêm vào đó, thời gian qua, Bệ hạ còn nạp thêm 1 vị quý phi tuổi đời còn rất trẻ, mà cũng vô cùng xinh đẹp, trong cung gọi là "Nương Tử", nghe nói bệ hạ hết mực sủng ái vị tân quý phi này, thậm chí giờ đây người tạm nắm quyền lục cung là Cao quý phi so ra cũng còn kém xa. Sở dĩ người ta nhao nhao bàn tán rằng Bệ hạ liệu chăng sẽ sắc lập vị quý phi kia lên ngôi Hoàng Hậu, là vì kiểu ân sủng này xưa nay quả hiếm thấy. Mà mặc kệ là truyện triều chính hay chuyện hậu cung, tôi nghe tai trái luồn qua tai phải, chẳng mấy mà quên sạch.

(*người đứng đầu nội các. Tham khảo chi tiết tại đây)

Những chuyện này nghe xong lại cảm giác ấm ức, tôi thấy tình cảm của bọn đàn ông thật khó mà tin được, nhất là đàn ông sinh trưởng trong hoàng thất, đứng trước toàn thể thiên hạ, phụ nữ có là cái gì? Cố Kiếm từng nói đấy thôi, một người muốn lên ngôi Hoàng đế, tránh sao được lòng dạ hóa thành sắt đá, máu lạnh và tàn nhẫn. Tôi thấy hắn nói đúng lắm.
Chiều xuống, bỗng nghe tí tách có tiếng mưa rơi. Vĩnh Nương ngóng ra màn mưa ngoài đình, khẽ than bảo: "Năm nay hoa kém tươi rồi."

Tôi ốm dẫu đã đỡ hơn, nhưng lại vướng cái bệnh ho, Thái y kê nhiều loại thuốc thang, ngày nào cũng uống, uống triền miên, vậy mà chẳng mấy tác dụng. Tôi vừa ho, Vĩnh Nương đã vội kéo cho tôi cái chăn, chỉ lo tôi nhiễm lạnh vào người. Tôi cũng mong ho sớm khỏi, sớm khỏi đi cho tôi và A Độ còn về Tây Lương.

Cho dù Tây Lương của tôi đã thay đổi đến nhường nào, chung quy tôi vẫn cứ phải về.

Tôi ngồi trước cửa sổ, ngắm cánh hoa anh đào mỏng manh oằn mình ủ dột trong cơn mưa, như những miếng lụa cắt vụn no nước nặng trĩu còn bấu dính với cành. Vĩnh Nương đã sai người dựng màn gấm, thứ mà nhà vương giả ở Trung Nguyên hay dùng để giữ hoa, mưa tưới xuống không thể tàn phá được cây cối dưới tấm màn
che. Tôi nom hoa anh đào núp mình dưới lều gấm, bốn góc lều còn mắc chuông vàng nhỏ xinh để đuổi lũ chim non, gió lay chuông đu đưa vẳng tiếng ngân.

Dạo này tôi thường ngổi ngẩn nhiều canh giờ, Vĩnh Nương cảm thấy như thể tôi đã biến thành một kẻ khác, trước kia tôi ồn ào lắm, giờ đã lắng xuống yên tĩnh nhường này, bà ấy thường dành cho tôi ánh nhìn rất đỗi lo âu.

A Độ cũng lo không kém, nàng ấy muốn kéo tôi ra ngoài chơi không chỉ một lần, nhưng tôi không tài nào vực nổi tinh thần. Tôi chưa kể cho A Độ nghe tôi nhớ ra những chuyện trước kia, tôi nhủ thầm có nhiều chuyện, tự mình chịu đựng thì tốt hơn cả.

Lúc hoa tàn thì tiết trời cũng bừng ấm. Trong cung thay áo xuân, Đông Cung cũng chuyển mình để đón tiết mùa xuân và những ngày chớm hè. Vĩnh Nương sai người dựng trong sân đình một cột xích đu, trước kia tôi thích ngồi dây đu đong đưa lắm, có điêu dưới cái nhìn của Lí Thừa Ngân, nó lại bị xem như trò cợt nhả, đâm ra trong Đông Cung xưa nay đã làm gì có xích đu, giờ Vĩnh Nương mới sai người làm 1 cái mới toanh cho tôi, song, nay tôi chẳng thiết chơi trò đó nữa.

Lúc cột đang được dựng thì tôi gặp Bùi Chiếu, bẵng đi một dạo rất lâu, lâu lắm rồi tôi chưa gặp lại hắn, phải từ lúc hắn khuyên tôi đừng nên qua lại với Nguyệt Nương nữa, phải từ dạo ấy trở đi tôi không còn thấy hắn nữa. Tôi lại nhớ ngay cái lần đầu gặp hắn, tôi vẫn nhớ y nguyên hắn từng đoạt dao trên tay A Độ, và cả tiếng kêu kinh hoàng ngày bên sông Quên. Chắc hẳn hắn không biết tôi đã nhớ lại toàn bộ.

Mà tôi sẽ không kể với hắn chuyện tôi đã nhớ ra đâu, nói rồi thể nào hắn cũng tăng cường đề phòng. Người Trung Nguyên toàn lũ bịp bợm, giờ đầu tôi cũng tiếp thu được ít nhiều, tôi phải giấu nhẹm đi, có thế mới rình được thời cơ dắt A Độ bỏ trốn.

Bùi Chiếu mang biếu tôi ít quà, những thứ ấy đều ngự ban từ trong cung, nghe nói là chiến lợi phẩm đại tướng quân Bùi Huống thu được ở Cao Ly, Bệ Hạ ban thưởng không ít người, chỗ tôi cũng có phần.

Toàn là đồ cổ và châu báu, xưa nay tôi chẳng mấy hứng thú với chúng, chỉ bảo Vĩnh Nương thu gom lại rồi thôi.

Bùi Chiếu vẫn bưng trên tay một chiếc làn, đích thân dâng lên tôi.

Tôi không nhận, đoạn sai Vĩnh Nương mở xem, thì ra là một con mèo con, to cỡ một nắm đấm, toàn thân trắng muốt như thỏ. Rõ ràng là mèo, mà hai mắt nó một bên xanh lam một bên xanh lục, nom yêu lắm. Nó nhoài mình dưới đáy làn, se sẽ kêu.

Tôi hỏi: "Bệ hạ ban thưởng cả cái này ư?"

Bùi Chiếu nói: "Con mèo này phụ thân mạc tướng mang về, nghe nói là cống phẩm của Xiêm La, anh em trong nhà nghịch ngợm, chắc không nuôi được, mạc tướng liền đem đến cho Thái Tử Phi."

Tôi ẵm mèo con, nó nằm mọp trong lòng bàn tay kêu meo meo, cái lưỡi nhỏ xíu màu hồng nhô ra, liếm ngón tay tôi. Cảm giác ngưa ngứa chà lên da tay, tê tê khó chịu mà lại yêu vô cùng, tôi thích con mèo nhỏ này ngay từ cái nhìn đầu tiên, liền cười bảo Bùi Chiếu: "Vậy thay ta chuyển lời cảm ơn tới Bùi lão tướng quân nhé."

Chẳng hiểu tại sao, tôi lại có cảm giác rằng Bùi Chiếu vừa mới trút hơi thở phào. Mặt mày tôi giãn cười, nhìn hắn chẳng hề kiêng dè,. Thoạt đầu hắn theo Lí Thừa Ngân đi chinh phạt Tây Vực, hắn là người biết chuyện từ đấu chí cuối, lúc đứng bên bờ sông Quên, cũng chính mắt hắn chứng kiến tôi nhảy xuống. Thế mà trước nay hẳn im re không hé lấy nửa lời, tôi nghĩ bụng, thực ra hắn hết mực trung thành với Lí Thừa Ngân, nếu như hắn biết tôi đã nhớ lại từ lâu, liệu hắn có lập tức thay đổi vẻ mặt, đề cao cảnh giác với tôi không? Dân Trung Nguyên quỷ kế thế đấy, tôi phải học từng bước một, rồi mọi đau đớn bọn chúng chất chồng trên thân tôi, tôi sẽ ném trả chúng bằng đủ.

Ngày đăng: 06/01/2014
Người đăng: Bùi Phương Linh
Đăng bài
Bạn thích truyện này?