Gửi bài:

Chương 4

KHI TIẾNG NÓI CỦA CÔ TAN BIẾN TRÊN BÃI ĐỖ XE VẮNG TANH, Caroline sập cửa xe và lội qua lớp tuyết bẩn. Nhưng chỉ mới đi được vài bước, cô đã dừng chân và quay lại với đứa bé. Tiếng khóc yếu ớt của Phoebe văng vẳng trong đêm tối, thôi thúc Caroline bước qua con đường nhựa, qua khoảng sáng trống trải rộng lớn, đến trước cánh cửa tự động của cửa hàng bách hóa. Cửa khóa. Caroline gào thét và gõ cửa liên hồi, tiếng hét của cô hòa lẫn trong tiếng khóc của Phoebe. Bên trong, những hành lang dài thắp đèn sáng rực đều vắng vẻ. Một cái xô bỏ đi đứng gần đó, những lon đồ hộp sáng lấp lánh trong câm lặng. Trong vài phút Caroline chỉ đứng yên, lắng nghe tiếng Phoebe khóc và tiếng gió luồn qua những rặng cây xa xa. Sau rồi cô thu hết quyết tâm và vòng ra sau cửa hàng. Cánh cửa cuốn kim loại chỗ bãi dỡ hàng cũng đóng im ỉm, nhưng cô vẫn dấn bước tới, xung quanh cô xông lên mùi thực phẩm thối rữa trên nền bê tông lạnh băng và trơn nhẫy do tuyết tan. Cô đá thật mạnh lên cánh cửa, thỏa mãn trước âm thanh chát chúa mà cú đá tạo ra, cô đá mãi, đá mãi cho tới khi thở không ra hơi.

"Cô này, nếu họ vẫn còn ở trong đó, chuyện này tôi chẳng dám chắc, thì họ cũng chưa mở cửa ngay đâu."

Giọng một người đàn ông. Caroline quay lại và nhìn thấy anh ta đang đứng phía dưới cô, trên con dốc cho xe kéo moóc lùi vào bãi dỡ hàng. Ngay cả ở khoảng cách này cô cũng ước chừng được anh ta là một người rất cao lớn. Anh ta khoác một chiếc áo to sù và đội mũ len đan. Đôi tay đút sâu trong túi áo.

"Con tôi đang khóc," cô nói, mặc dù chẳng cần thiết. "Xe tôi bị chết ắc quy. Có một chiếc điện thoại ở ngay sau cửa trước, nhưng tôi không với tới được."

"Con cô mấy tuổi rồi?" người đàn ông cất tiếng hỏi.

"Mới sinh thôi," Caroline trả lời, cô hầu như không nghĩ nổi điều gì, giọng cô đã gần như lạc đi trong nước mắt và sợ hãi. Thật nực cười, cái ý tưởng mà cô không ngớt nguyền rủa, thì đây, cô đang trong cảnh ấy đấy thôi - người đẹp lâm nạn.

"Giờ là tối thứ Bảy," người đàn ông nhìn cô, giọng nói của anh ta vang xa trong không gian đầy tuyết giữa hai người. Bên ngoài bãi đỗ xe, phố xá yên lặng như tờ. "Tất cả ga ra trong thành phố đều đóng cửa cả rồi."

Caroline không đáp lại.

"Này cô," anh ta cất giọng chậm rãi, chất giọng chắc chắn nghe có vẻ đáng tin cậy. Caroline chợt nhận ra anh ta đang cố tỏ ra điềm tĩnh, dịu dàng; có lẽ anh ta nghĩ cô bị điên cũng nên. "Tôi lỡ để quên dây cáp kéo ở chỗ một lái xe tải tuần trước rồi, nên tôi không kéo xe giúp cô được. Nhưng như cô vừa nói đấy, ngoài này rất lạnh. Tôi đang nghĩ, sao cô không vào ngồi cùng tôi trong buồng lái? Trong đó ấm lắm. Tôi vừa chở một kiện sữa tới vài giờ trước, tôi còn đang chờ xem tình hình thời tiết ra sao. Ý tôi là cô cứ thoải mái, cô ạ. Cô cứ vào xe ngồi cùng tôi. Tôi sẽ để cô chút thời gian suy nghĩ cho kỹ nhé." Thấy Caroline không trả lời ngay, anh ta bèn đế thêm, "Ý tôi là cả cô và con cô."

Caroline nhìn sang bãi đỗ xe, tới tận cuối bãi, nơi một chiếc xe tải chở hàng với cái đầu kéo đen sì sáng bóng đứng im lìm. Cô đã trông thấy nó trước đó nhưng chẳng hề để ý. Một cái thùng xe màu bạc xỉn dài ngoẵng, sự hiện diện của nó như một tòa nhà bên rìa thế giới vậy. Trong tay cô, Phoebe hổn hển lấy lại hơi và bắt đầu khóc.

"Thôi được," Caroline quyết định. "Lúc này thì sao cũng được." Rồi cô cẩn thận bước qua chỗ hành giập nát. Khi cô tới bờ dốc, anh ta đã đứng chờ sẵn, một tay giơ lên để giúp cô bước xuống. Cô vịn lấy cánh tay anh ta, dù hơi khó chịu nhưng cũng thầm biết ơn, vì biết rằng dưới đống rau củ đang thối rữa và tuyết là lớp băng. Cô ngước lên nhìn mặt anh ta, hàm râu rậm, chiếc mũ lưỡi trai kéo sụp xuống tận chân mày, và dưới cặp lông mày, là một đôi mắt nâu sẫm: một đôi mắt nhân hậu. Thật nực cười, cô tự nhủ, khi họ cùng đi qua bãi đỗ xe. Điên rồ. Xuẩn ngốc nữa chứ. Anh ta có thể là một tên sát nhân bằng rìu lắm chứ. Nhưng sự thật là cô đã quá mệt để bận tâm đến chuyện đó.

Anh ta giúp cô nhặt nhạnh vài thứ trong xe rồi yên vị trong buồng lái, anh ta bế Phoebe trong khi Caroline trèo lên chiếc ghế ngồi cao ngất ngưởng, rồi chuyền Phoebe cho cô. Caroline rót ít sữa trong phích vào bình. Phoebe đã mệt lả đi, đến nỗi phải mất một lúc sau con bé mới nhận ra hơi sữa, ngay cả khi ấy nó vẫn phải trằn người lên để bú. Caroline vuốt nhẹ lên má con bé, cuối cùng nó cũng ngậm lấy núm vú và bắt đầu bú.

"Lạ quá phải không," người đàn ông cất lời khi con bé đã nín. Anh ta đã trèo lên ghế tài xế. Tiếng động cơ kêu rì rì trong bóng đêm, thật dễ chịu, như tiếng một con mèo khổng lồ, và thế giới trải rộng ra mãi tận chân trời tối tăm. "Ý tôi là những trận tuyết kiểu này ở Lexington ấy."

"Cứ vài năm lại có một lần như thế," cô trả lời. "Anh không phải là người ở đây đúng không?"

"Arkon, Ohio," anh ta đáp. "Nguyên quán thôi. Còn suốt năm năm nay tôi chỉ rong ruổi trên đường. Dạo này tôi thích coi mình như dân giang hồ ấy."

"Anh không thấy cô đơn sao?" Caroline hỏi, cô chợt nghĩ tới những đêm cô ngồi một mình trong căn hộ. Cô không thể tin rằng mình lại ở đây, đang nói chuyện với một người xa lạ thân mật đến thế. Cảm giác vừa mới lạ lại vừa hồi hộp, như thể ta đang đặt hết niềm tin của mình vào một người mới quen trên tàu điện hay xe bus.

"Ờ thì, cũng đôi khi," anh ta thừa nhận. "Công việc này rất cô đơn, chắc chắn rồi. Nhưng tôi cũng thường hay gặp được ai đó một cách rất tình cờ. Như đêm nay chẳng hạn."

Trong buồng lái thật ấm áp, và Caroline thấy mình ngày càng quen dần với cái không khí ấy, cô ngả lưng xuống chiếc ghế ngồi êm ái cao ngất ngưởng. Tuyết vẫn vần vũ trên những cột đèn đường. Chiếc xe của cô nằm giữa bãi đỗ, một khối màu đen thẫm trơ trọi phủ đầy bông tuyết.

"Cô đang định đi đâu?" anh ta hỏi cô.

"Tới Lexington thôi. Vài giờ trước có một vụ tai nạn trên đường cao tốc liên bang cách đây có vài dặm đường. Tôi cứ nghĩ mình sẽ tiết kiệm thêm chút thời gian và tránh được phiền toái cơ đấy."

Khuôn mặt anh ra hơi sáng lên dưới ánh đèn đường, anh ta mỉm cười. Bất ngờ, Caroline cười theo và rồi cả hai cùng cười vang.

"Kế hoạch tối ưu," anh ta nói.

Caroline gật đầu.

"Cô này," sau một hồi im lặng, anh ta mới nói. "Nếu cô chỉ tới Lexington thì tôi có thể cho cô đi nhờ. Tôi cũng có thể đậu xe tải ở đó như nơi này. Ngày mai - ừm, ngày mai là Chủ nhật, đúng không? Nhưng sang đến thứ Hai, trước tiên cô có thể gọi dịch vụ trục kéo để xử lý chiếc xe của cô. Để xe ở đây an toàn lắm, chắc chắn đấy."

Ánh sáng hắt từ cột đèn đường chiếu xiên qua khuôn mặt bé xíu của Phoebe. Anh ta giơ tay ra và vuốt lên trán con bé thật dịu dàng bằng bàn tay to bè của mình. Caroline thích sự ngập ngừng, vẻ điềm tĩnh của anh ta.

"Vậy cũng được," cô quyết định. "Nếu như thế không phiền đến anh."

"Ôi trời, không đâu," anh ta nói. "Khỉ ạ, không. Thứ lỗi cho tôi đã lỡ lời nhé. Lexington ở ngay trên đường tôi đi thôi mà."

Anh ta gom hết đồ đạc còn lại trong xe cô, vài bịch thức ăn và mấy tấm chăn. Tên anh là Al, Albert Simpson. Mò mẫm một hồi dưới sàn, anh ta tìm thấy thêm một chiếc cốc dưới ghế ngồi. Anh ta lấy khăn mùi soa lau chùi nó thật kỹ rồi mới rót cà phê trong phích ra đưa cho cô. Cô uống cà phê, thấy vui vui vì cà phê rất đặc, vui vì không khí ấm áp và vì có một người bạn đồng hành dù anh không biết chút gì về cô. Cô cảm thấy an toàn và hạnh phúc kỳ lạ, mặc dù trong xe xông lên mùi ẩm mốc và mùi tất bẩn, cùng với một đứa bé không phải con cô lại đang nằm ngủ trong lòng cô. Vừa lái xe, Al vừa nói đủ thứ chuyện, về cuộc đời rong ruổi trên khắp các tuyến đường của anh, xe chỉ dừng những lúc anh cần tắm rửa, cứ như thế từng dặm đường trôi qua dưới bánh xe, hết đêm này sang đêm khác.

Bị ru ngủ bởi tiếng bánh xe rì rì, bởi không khí ấm áp và những bông tuyết không ngừng táp vào đèn pha, Caroline mơ màng trôi vào giấc ngủ. Khi họ vòng vào bãi đỗ xe trong khu chung cư nơi cô sống, chiếc xe tải chiếm trọn năm ô đỗ. Al ra khỏi xe trước để giúp cô xuống xe và bỏ mặc chiếc xe tải nằm đấy để bê mấy món đồ đạc của cô lên cầu thang phía ngoài. Caroline lẽo đẽo đi theo, tay bế Phoebe. Tấm rèm buông trên một ô cửa sổ phía dưới chợt hé ra tích tắc - Lucy Martin lại dòm dỏ như mọi ngày - Caroline đứng khựng lại, trong một giây cô bỗng thấy đầu óc quay cuồng. Bởi tuy mọi thứ vẫn giữ nguyên như cũ, nhưng chắc chắn cô không còn là người phụ nữ đã rời đây nửa đêm hôm trước, người đã lội bộ qua tuyết để tới được chiếc xe của mình. Chắc chắn cô đã bị biến đổi hoàn toàn, nhiều đến mức lẽ ra cô nên bước vào những căn phòng khác, đứng dưới thứ ánh sáng khác kia. Thế nhưng chiếc chìa khóa quen thuộc của cô vẫn trượt vào và nằm gọn trong ổ khóa thân quen. Khi cánh cửa mở ra, cô bế Phoebe vào căn phòng cô đã thuộc nằm lòng từng tiểu tiết: tấm thảm màu nâu sẫm dày dặn, chiếc sofa bọc vải kẻ ca rô và chiếc ghế bành cô mua trong một đợt giảm giá, chiếc bàn uống cà phê mặt kính, quyển tiểu thuyết cô hay đọc trước khi đi ngủ - Tội ác và trừng phạt - đã được đánh dấu trang cẩn thận. Cô đã ngủ quên đúng đoạn Raskolnikov thú nhận mọi chuyện với Sonya, mơ thấy họ trong căn gác lạnh lẽo và sau đó bị đánh thức bởi tiếng chuông điện thoại và cơn mưa tuyết ngập tràn phố xá.

Al lúng túng bước vào, người đứng chắn hết cửa. Anh ta có thể là một tay giết người hàng loạt, hay tội phạm cưỡng dâm, hay một tay lừa đảo tráo trở lắm chứ. Anh ta có thể là bất cứ hạng người nào.

"Tôi có một cái giường sofa đấy," cô nói. "Tối nay anh có thể sử dụng tùy ý."

Sau một phút phân vân, anh ta bước hẳn vào trong.

"Còn chồng cô thì sao?" anh ta nhìn quanh hỏi.

"Tôi chẳng có chồng nào cả," cô đáp, và ngay lập tức nhận ra sai lầm của mình. "Không có nữa thôi."

Anh ta cứ đứng yên nhìn cô, chiếc mũ len cầm tay, những lọn tóc xoăn đen kỳ lạ thò ra lởm chởm trên đầu. Cô cảm thấy uể oải, nhưng vẫn bị kích thích bởi cốc cà phê vừa uống và sự mệt mỏi của bản thân, cô bỗng tự hỏi không hiểu trong mắt anh ta trông mình ra sao - bộ đồng phục y tá vẫn mặc trên người, mái tóc nhiều giờ qua chưa được chải chuốt, áo khoác không cài nút, lại thêm đứa bé trên tay cô, đôi tay rã rời.

"Tôi không muốn gây phiền toái cho cô," anh ta nói.

"Phiền toái?" cô kêu lên. "Không có anh thì giờ tôi vẫn còn đang loay hoay ở bãi đỗ xe kia."

Nghe vậy anh ta toét miệng cười, sau đó quay lại chỗ chiếc xe tải, và chỉ vài phút sau đã quay lại với một túi vải bạt nhỏ màu lục sẫm.

"Có ai đó đang theo dõi chúng ta từ cửa sổ tầng dưới ấy. Cô có chắc tôi sẽ không gây phiền toái gì cho cô không?"

"Lucy Martin đấy mà," Caroline đáp. Phoebe lại quấy, cô bỏ bình sữa ra khỏi bình ủ, nhỏ ít sữa ra cánh tay để thử rồi cô ngồi xuống. "Cô ta buôn chuyện nhiều phát sợ đi được ấy. Tin tôi đi. Anh thật sự làm cô ta khoái chí đấy."

Phoebe không chịu bú sữa, thêm nữa, nó bắt đầu quấy khóc, Caroline bèn đứng dậy, đi đi lại lại quanh phòng, vừa đi vừa ru khe khẽ. Trong khi đó, Al bắt tay vào việc ngay lập tức. Chỉ loáng một cái anh ta đã kéo chiếc giường sofa ra và trải chăn nệm chỉn chu, các mép chăn gập rất gọn đúng kiểu nhà binh. Cuối cùng Phoebe cũng thôi khóc, Caroline gật đầu với anh ta và thì thầm chúc ngủ ngon. Cô đóng cửa thật chặt cánh cửa phòng ngủ. Cô nghĩ một người như Al hẳn sẽ nhận ra sự thiếu vắng của một chiếc nôi trẻ em.

Trên đường đi Caroline đã trù tính mọi việc kỹ lưỡng, giờ cô bỏ một chiếc ngăn kéo bàn trang điểm ra, đổ hết những món đồ được xếp ngăn nắp trong đó thành một đống lên sàn nhà. Xong xuôi cô gấp hai cái khăn tắm làm lớp lót, gài xung quanh một tấm vài gấp, rồi đặt Phoebe vào giữa lớp chăn nệm. Khi cô leo lên giường, một cảm giác mệt nhọc cuốn lấy cô như sóng lũ, cô chìm vào giấc ngủ ngay tức khắc, một giấc ngủ mê mệt không mộng mị. Cô không hề nghe thấy tiếng ngáy như sấm của Al vọng vào từ phòng khách, tiếng máy xúc tuyết chạy rầm rầm dưới bãi đỗ xe, cả tiếng lạch cạch của xe chở rác đi qua phố. Nhưng khi Phoebe khóc, một lúc nào đó quãng nửa đêm, Caroline đã bật dậy chỉ trong tích tắc. Cô mò mẫm trong bóng tối mà như bơi trong nước, mệt mỏi nhưng có chủ đích: cô thay tã cho Phoebe, ủ ấm bình sữa, dồn hết tâm sức vào đứa bé trong tay mình và những nhiệm vụ trước mắt - cực kỳ cấp thiết, cự kỳ tốn thì giờ và không thể không làm - những nhiệm vụ mà giờ chỉ mình cô có thể hoàn thành, những nhiệm vụ không thể trì hoãn một giây phút nào.

* * *

Caroline tỉnh dậy trong ánh sáng chói chang với mùi trứng và thịt muối thơm ngào ngạt. Cô vùng dậy, xỏ tạm chiếc áo choàng và cúi xuống chạm vào bầu má êm mượt của con bé. Sau đó cô đi xuống bếp, thấy Al đang phết bơ lên bánh mì.

"A, chào cô," anh ta ngước lên. Mái tóc của anh đã được chải chuốt nhưng vẫn còn hơi bờm xờm. Sau đầu anh ta lộ ra một đốm hói nhỏ, quanh cổ lủng lẳng một sợi dây chuyền có mặt trái tim. "Hy vọng cô không khó chịu vì sự tùy tiện của tôi. Hôm qua tôi còn chưa kịp ăn tối."

"Thơm quá," Caroline nói. "Tôi cũng đang đói meo đây."

"À, vậy hả," vừa nói anh ta vừa đưa cô một tách cà phê. "May mà tôi làm nhiều. Cô có căn nhà xinh xắn gọn gàng quá. Đẹp mà lại sạch sẽ nữa."

"Anh có thích không?" cô hỏi. Cà phê thơm và đậm hơn so với thứ cà phê thường ngày cô vẫn pha. "Tôi đang tính chuyển đi."

Những lời ấy làm chính cô cũng phải ngạc nhiên, nhưng dường như từng lời nói ra đều là thật. Ánh sáng ban ngày chiếu xiên ngang tấm thảm nâu sẫm và cả trên tay vịn chiếc sofa cô ngồi. Nước chảy nhỏ giọt trên mái hiên phía ngoài. Cô đã dành dụm tiền trong bao năm trời, đã tưởng tượng đến lúc mình sống trong một căn nhà riêng hay dự phần vào một cuộc phiêu lưu mạo hiểm nào đó, và giờ thì cô ngồi đây: một đứa trẻ ngủ trong phòng ngủ của cô, một người lạ mặt ngồi bên chiếc bàn của cô, còn chiếc xe của cô thì kẹt ở Versailles.

"Tôi đang tính chuyển tới sống ở Pittsburgh," cô lại nói, một lần nữa khiến bản thân ngạc nhiên quá đỗi.

Al lấy chiếc xẻng con lật trứng, rồi xúc ra đĩa. "Pittsburgh hả? Chỗ đó hay lắm. Sao cô lại muốn chuyển đến đấy?"

"À, mẹ tôi có họ hàng thân thích ở đấy," Caroline đáp, trong khi anh ta đặt mấy đĩa thức ăn lên bàn và ngồi xuống phía đối diện với cô. Dường như chỉ cần một lời nói dối phát ra, thì chẳng còn giới hạn nào cho những câu dối trá tiếp theo nữa.

"Cô biết đấy, tôi muốn nói là tôi rất tiếc," Al nói. Đôi mắt sẫm của anh ta trông thật nhân hậu. "Vì bất cứ điều gì đã xảy đến với cha của con cô."

Caroline quên bẵng đi là mình đã bịa ra một ông chồng, vì vậy cô thực sự bất ngờ trước những gì Al nói, chứng tỏ anh ta không tin cô từng có chồng. Anh ta nghĩ cô là mẹ của một đứa con ngoài giá thú, có lẽ vậy. Họ cùng ăn mà không nói năng gì nhiều, chỉ thỉnh thoảng bình phẩm về chuyện thời tiết, chuyện giao thông và nơi Al sắp đến, Nashville, Tennessee.

"Tôi chưa bao giờ tới Nashville," Caroline đưa đẩy câu chuyện.

"Chưa à? Ồ, thế thì ta cùng lên xe đi, cả cô và bé con của cô luôn," Al kêu lên. Đó chỉ là câu đùa, nhưng ẩn dưới nó lại là một lời đề nghị. Đó không thực là lời đề nghị dành cho cô, mà là dành cho bà mẹ không có hôn thú, một vai trò cô đang phải gánh chịu. Tuy vậy, trong phút chốc Caroline bỗng mường tượng ra cảnh cô bước khỏi cửa cùng những hòm xiểng chăn màn của mình và không bao giờ còn quay đầu lại nữa.

"Có lẽ để lần sau vậy," cô đáp, vươn tay ra với lấy bình cà phê. "Tôi vẫn còn vài chuyện phải thu xếp nốt."

Al gật đầu. "Rồi. Tôi cũng hiểu mấy chuyện đấy lắm."

"Dù sao cũng cảm ơn anh nhé," cô nói. "Tôi rất trân trọng lời mời của anh."

"Vậy là tôi vui rồi," anh ta đáp vẻ nghiêm trang, rồi đứng dậy rời đi - Caroline đứng bên cửa sổ nhìn anh ta đi bộ ra chỗ đỗ xe, leo mấy bậc trèo vào buồng lái và giơ một tay ra vẫy cô từ khung cửa mở rộng. Cô vẫy tay chào lại, trong lòng vui vui khi thoáng thấy nụ cười của anh ta, thật cởi mở và phóng khoáng, bất ngờ thấy tim mình rộn lên. Trong cô bỗng cồn lên ước muốn chạy theo anh, cô nhớ chiếc giường nhỏ đặt sau buồng lái, nơi thỉnh thoảng anh vẫn ngả lưng, nhớ cách anh vuốt lên trán Phoebe thật dịu dàng. Chắc chắn một người đàn ông sống cuộc đời đơn độc đến thế có thể giữ kín những bí mật của cô, có thể đón nhận những ước mơ và cả nỗi sợ hãi trong cô. Nhưng động cơ đã nổ giòn, khói phun lên từ chiếc ống bạc trên nóc buồng lái, và anh ta cẩn thận lái xe rời bãi đỗ tiến ra con phố vắng lạnh rồi đi xa dần.

* * *

Hai tư giờ sau đó Caroline ngủ và thức theo thời gian biểu của Phoebe, chỉ tỉnh những lúc cần ăn uống. Lạ ở chỗ; cô luôn là người rất quy củ trong chuyện này vì sợ rằng ăn uống tùy tiện là biểu hiện của tính lập dị và sự khép kín, nhưng giờ cô ăn vào những giờ cực kỳ thất thường: cô bốc luôn ngũ cốc lạnh còn đựng trong túi, đứng xúc kem từ hộp giấy ra ăn ngay bên quầy bếp. Dường như khi ấy cô đã rơi vào trạng thái mơ hồ, ở lưng chừng giữa tỉnh và thức, ở đó cô không còn phải lo lắng thái quá về kết quả những quyết định của mình, hay về số phận của đứa trẻ đang nằm ngủ trong ngăn kéo chiếc bàn phấn của cô, hay thậm chí là số phận của chính cô nữa.

Buổi sáng thứ Hai cô thức dậy vừa kịp giờ để báo nghỉ ốm. Cô tiếp tân Ruby Centers là người nhận điện.

"Cậu có ổn không đấy?" cô ta hỏi. "Nghe giọng cậu khiếp quá."

"Chắc mình bị dính cúm rồi," Caroline đáp. "Có lẽ mình sẽ nghỉ vài ngày. Ở phòng khám có chuyện gì không?" Cô cố lấy giọng thản nhiên. "Vợ bác sĩ Henry vừa sinh con phải không?"

"Ôi, mình có biết gì đâu," Ruby nói. Caroline tưởng tượng ra cái cau mày trầm tư của cô ta, quầy tiếp tân đã được lau chùi sạch bong để sẵn sàng cho một ngày làm việc mới, chiếc lọ cắm mấy bông hoa giả để một góc. "Đã có ai đến đâu, nhưng có cả trăm bệnh nhân ở đây rồi ấy. Có vẻ như mọi người bị nhiễm hết bệnh cúm của cô rồi, thưa cô Caroline."

Caroline vừa gác máy thì ngoài cửa có tiếng gõ. Lucy Martin, không nghi ngờ gì nữa. Caroline chỉ ngạc nhiên là sao giờ này ả mới chịu ló mặt ra.

Lucy mặc một cái váy có in những bông hoa to màu hồng rực rỡ, khoác chiếc tạp dề diềm hồng, và đi đôi dép lê đã mòn xơ mòn xác. Caroline vừa mở cửa, ả bước ngay vào, mang theo nửa ổ bánh nhân chuối bọc trong lớp ni lông.

Ai ai cũng nói Lucy là người có tấm lòng vàng, nhưng chỉ riêng sự hiện diện của ả cũng khiến Caroline sởn gai ốc. Những thứ bánh trái và món ăn nóng hổi do chính tay ả làm chính là tấm giấy thông hành giúp ả tham gia vào bất cứ câu chuyện ngồi lê đôi mách nào: từ chuyện chết chóc hay tai nạn, đến chuyện sinh nở, cưới xin và tang ma. Có điều gì đó không ổn trong vẻ háo hức của ả, thói tọc mạch bệnh hoạn trước những tin tức chả tốt lành gì, vì vậy Caroline thường cố gắng giữ khoảng cách với ả.

"Em nhìn thấy khách của chị rồi nhá," Lucy vừa nói vừa vỗ lên tay Caroline. "Ối trời! Anh ta trông được đấy chứ? Em không thể chờ đến lúc được nghe tin vui đâu đấy!"

Lucy ngồi xuống chiếc giường sofa giờ đã được gấp lại. Caroline chọn chiếc ghế bành. Cánh cửa phòng ngủ nơi Phoebe đang nằm ngủ vẫn hé mở.

"Chị yêu, chị có ốm không đấy?" Lucy nói. "Tự nhiên em lo quá, tại vì bình thường tầm giờ này chị đã đi làm từ lâu rồi kia."

Caroline nhìn khuôn mặt háo hức của Lucy, cô biết rằng bất cứ điều gì mình nói ra sẽ nhanh chóng bay đến tai khắp mọi người trong thành phố - rằng chỉ trong hai, hoặc ba ngày nữa, sẽ có người chặn đường cô ở cửa hàng bách hóa hay nhà thờ để gặng hỏi về người lạ mặt đã qua đêm ở nhà cô.

"Người cô thấy đêm qua là em họ tôi đấy." Caroline nói rất thản nhiên, một lần nữa cô lại cảm thấy kinh ngạc trước thứ năng lực bất ngờ mình vừa khai thác được, bởi những lời nói dối trôi chảy và tự nhiên của chính mình. Nó đến với cô thật dễ dàng, thậm chí cô còn không mảy may chớp mắt.

"Ồ, thế mà em cứ tưởng," Lucy nói, vẻ hơi thất vọng.

"Tôi biết," Caroline đáp. Bằng một cú đánh chặn bất ngờ mà về sau cứ mỗi lần nghĩ lại cô vẫn còn thấy ngạc nhiên, cô tiếp lời. "Khổ thân cậu Al. Vợ cậu ấy đang nằm viện." Cô nghiêng người lại gần hơn, giọng hạ thấp. "Tội lắm, Lucy ạ. Con bé mới hai nhăm tuổi đầu, nhưng thấy họ chẩn đoán có lẽ nó bị u não. Con bé yếu đi nhanh quá, Al phải đưa nó từ dưới Somerset lên đây để gặp chuyên gia. Còn đứa bé này là con của hai vợ chồng nó. Tôi bảo cậu ấy là, Này, cậu phải ở bên vợ chứ, phải túc trực ngày đêm ở bệnh viện ấy. Cứ để con tôi trông cho. Tôi nghĩ vì tôi là y tác nên chắc vợ chồng cậu ấy cũng thấy yên tâm hơn. Tôi hy vọng cô không phiền vì con bé quấy khóc."

Trong vài phút sau đó Lucy chỉ biết câm lặng vì sững sờ, và Caroline bỗng hiểu cảm giác khoan khoái - thứ quyền năng - sau khi tung một vố bất ngờ đến vậy.

"Ôi trời, khổ thân em họ chị và vợ cậu ấy! Đứa bé được mấy tuổi rồi?"

"Chỉ mới ba tuần tuổi thôi," Caroline đáp, sau đó, trong lòng phấn khích, cô đứng dậy. "Đợi ở đây nhé."

Cô vào phòng ngủ và bế Phoebe từ chiếc ngăn kéo bàn trang điểm, cố giữ cho mấy lớp chăn quấn chặt quanh người con bé.

"Con bé xinh không này?" vừa hỏi cô vừa ngồi xuống cạnh Lucy.

"Ôi, xinh thật. Em bé đáng yêu quá đi mất!" Lucy kêu lên, nói rồi cầm lấy bàn tay nhỏ xinh của Phoebe.

Caroline mỉm cười, bất chợt trong lòng trào dâng cảm giác vừa tự hào vừa mãn nguyện. Những đặc điểm cô đã thấy trong phòng sinh - đôi mắt xếch, cái mặt hơi phẳng - đã trở nên quá đỗi thân thương, tới mức cô hầu như chẳng còn để ý nữa. Còn Lucy, với con mắt của dân ngoại đạo, không hề nhận ra những nét ấy. Phoebe cũng giống như mọi đứa trẻ bình thường, nhạy cảm, dễ thương, và hay đòi hỏi.

"Tôi thích ngắm nó lắm," Caroline thú thật.

"Ôi, bà mẹ tội nghiệp," Lucy thì thầm. "Liệu cô ấy có sống được không chị?"

"Không ai biết cả," Caroline trả lời. "Phải chờ thôi."

"Chắc họ đau khổ lắm," Lucy nói.

"Ừ, họ buồn lắm. Thậm chí chẳng thèm ăn uống gì nữa kia." Caroline giãi bày, tiện thể lái chủ đề sang món ăn thơm ngon mới ra lò do Lucy tự tay làm.

* * *

Trong hai ngày tiếp đó, Caroline không hề bước chân ra khỏi nhà. Cô chỉ tiếp xúc với thế giới qua báo chí, người đưa thực phẩm, người giao sữa, tiếng xe cộ. Thời tiết dần thay đổi, tuyết đã tan, cũng đột ngột như khi đổ xuống, chảy dọc theo gờ tường các tòa nhà rồi thoát xuống cống. Với Caroline, những ngày đã qua cũng phai nhạt dần, chỉ còn là một chuỗi hình ảnh ấn tượng và rời rạc: hình dáng chiếc Ford Fairlane của cô, ắc quy được nạp đầy lại, rồi được đưa vào bãi đỗ; ánh nắng xuyên qua ô cửa sổ mờ bụi; hơi đất ẩm mốc phảng phất; một con chim cổ đỏ đậu trên máng ăn. Cô luôn bị ám ảnh bởi những lo toan, nhưng thường những lúc ngồi bế Phoebe, cô ngạc nhiên khi thấy lòng mình hoàn toàn thư thái. Những gì cô nói với Lucy Martin là thật: cô thích ngắm đứa bé này. Cô thích ngồi dưới ánh nắng và bế nó trong tay. Cô tự dặn mình không được yêu Phoebe; rằng cô chỉ là bến đỗ tạm thời cho nó thôi. Khi ở phòng khám Caroline đã ngắm nhìn David Henry đủ nhiều nên cô hoàn toàn tin rằng anh là người đầy lòng trắc ẩn. Đêm ấy, khi anh ngẩng đầu lên khỏi chiếc bàn giấy, mắt chạm mắt với cô, cô đã thấy trong ánh mắt ấy lòng nhân hậu vô bờ bến. Cô tin chắc rằng một khi cú sốc đã qua đi, anh sẽ có quyết định đúng đắn.

Cứ mỗi lần chuông điện thoại reo cô lại thoáng giật mình. Nhưng ba ngày trôi qua mà chẳng có lời nào từ anh.

Buổi sáng thứ Năm, ngoài cửa có tiếng gõ. Caroline vội vàng chỉnh lại thắt lưng chiếc váy đang mặc, vuốt sơ mái tóc rồi chạy ra mở cửa. Nhưng hóa ra chỉ là một nhân viên vận chuyển, anh ta cầm một lẵng đầy hoa: đám hoa baby đỏ thẫm xen lẫn phớt hồng. Hoa Al gửi. Trên chiếc card anh ghi mấy dòng này: Cám ơn cô vì sự mến khách. Có lẽ tôi sẽ được gặp lại cô vào chuyến xe sau.

Caroline ôm hoa vào nhà và bày lên bàn cà phê. Trong cơn phấn khích, cô cầm tờ The Leader lên, đã mấy ngày nay cô chưa động vào nó; cô tháo sợi chun cao su, rồi liếc qua mấy bài viết, không thực để tâm đến một bài nào. Tình hình căng thẳng ngày càng gia tăng ở Việt Nam, rồi các bài báo ở mục xã hội về chuyện tuần qua ai vừa vui vẻ với ai, rồi trang hình các phụ nữ trong vùng diện mốt mũ mới cho mùa xuân. Caroline vừa định quẳng tờ báo xuống thì một ô vuông viền đen đập vào mắt cô.

Lễ tưởng niệm

Dành cho con gái thân yêu của chúng tôi

Phoebe Grace Henry

Sinh và mất ngày mồng 6 tháng Ba năm 1964

Tổ chức tại Nhà thờ Lexington

Vào hồi 9.00, thứ Sáu, ngày 13 tháng Ba năm 1964.

Caroline chậm chạp ngồi xuống. Cô đọc đi đọc lại bản thông báo. Thậm chí cô còn sờ lên từng dòng chữ, như thể làm như thế có thể khiến chúng trở nên rõ ràng, dễ hiểu hơn. Tờ báo vẫn cầm trên tay cô, cô đứng dậy đi vào phòng ngủ. Phoebe vẫn đang ngủ trong chiếc ngăn kéo, cánh tay tái nhợt sã xuống trên mấy tấm chăn. Sinh và mất. Caroline quay lại phòng khách và gọi điện đến phòng khám. Ruby nhấc máy ngay sau tiếng chuông đầu tiên.

"Không ngờ lại là cậu à?" cô ta kêu lên. "Chỗ này cứ như là cái trại thương điên ấy. Hình như ở thành phố ai cũng dính cúm cả rồi thì phải." Rồi cô ta hạ thấp giọng. "Cậu nghe gì chưa Caroline? Chuyện bác sĩ Henry và con anh ấy ấy? Họ có hai đứa sinh đôi đấy. Thằng bé thì khỏe, nó xinh lắm. Nhưng con bé thì mất ngay lúc sinh. Tội quá."

"Mình đọc trên báo rồi." Caroline thấy hàm và lưỡi cứng đơ lại. "Nhờ cậu nhắn bác sĩ Henry gọi cho mình với, được không? Nói với anh ấy là có chuyện quan trọng lắm. Mình đã đọc báo rồi," cô lặp lại. "Nhớ bảo anh ấy thế nhé, được không Ruby?" Nói rồi cô gác máy và ngồi trân trân nhìn cây tiêu huyền và bãi đỗ xe ở phía xa xa.

Một tiếng sau anh đã tới gõ cửa nhà cô.

"Chào anh," cô nói rồi mời anh vào nhà.

David Henry bước vào và ngồi xuống sofa, lưng anh còng xuống, chiếc mũ cầm trong tay. Cô cũng ngồi xuống chiếc ghế tựa đối diện và nhìn anh như thể chưa từng gặp anh bao giờ.

"Norah đã cho đăng thông báo," anh nói. Khi anh ngẩng mặt lên cô bỗng thấy lòng thắt lại vì thương cảm, trên trán anh đã hằn lên nhiều nếp nhăn, đôi mắt đỏ ngầu, dường như anh đã không ngủ nhiều ngày nay.

"Cô ấy tự ý làm mà không nói trước cho tôi biết."

"Nhưng cô ấy nghĩ con gái mình đã chết," Caroline nói. "Có phải anh đã nói với cô ấy như vậy không?"

Anh chậm chạp gật đầu. "Tôi cũng định cho cô ấy biết sự thật. Nhưng khi tôi mở miệng ra, tôi không thể nói nên lời được. Lúc ấy tôi nghĩ mình đang giúp cô ấy bớt đau khổ."

Caroline nghĩ đến những lời nói dối của mình, câu nọ nối câu kia.

"Tôi không gửi con bé ở Louisville," cô khẽ nói. Cô ra dấu về phía cánh cửa phòng ngủ. "Con bé ở trong kia. Đang ngủ."

David Henry ngước mắt lên. Caroline hoảng hốt khi nhìn thấy khuôn mặt anh trắng bệch; cô chưa từng thấy anh tỏ vẻ xúc động đến thế bao giờ.

"Tại sao không?" anh chì chiết, gần như nổi điên lên. "Tại sao không hả trời?"

"Anh đã đến đó bao giờ chưa?" cô hỏi, trong đầu bỗng hiện ra hình ảnh người phụ nữ xanh xao với những món tóc sẫm rơi xuống tấm vải sơn lạnh lẽo. "Anh đã nhìn thấy nơi đó bao giờ chưa?"

"Chưa." Anh cau mày. "Chỉ vì chỗ đó có vẻ rất tốt, vậy thôi. Trước đây tôi cũng đã giới thiệu vài người đến đấy. Tôi chưa thấy có ai phàn nàn gì cả."

"Nơi đó kinh khủng lắm," cô nói, trong lòng thấy nhẹ nhõm hẳn. Vậy là anh không biết mình đang làm gì. Dù muốn ghét anh, nhưng cô vẫn còn nhớ những đêm anh nán lại phòng khám để chữa bệnh cho những người bệnh không có đủ tiền thang thuốc chạy chữa. Những người lặn lội từ nông thôn lên, từ vùng cao xuống, đã phải trải qua một cuộc hành trình dài vất vả để tới Lexington, tiền bạc chẳng có, chỉ biết hy vọng. Các nhân viên khác làm việc cùng phòng khám chả mặn mà gì với chuyện đó, nhưng bác sĩ Henry vẫn không ngừng nghỉ. Anh không phải người xấu, cô biết lắm chứ. Anh ấy không phải một con quái vật. Nhưng việc này – tổ chức lễ tưởng niệm cho một đứa trẻ vẫn còn sống – thì thực sự là man rợ.

"Anh phải nói cho cô ấy biết đi," cô nói.

Khuôn mặt anh vẫn tái nhợt, nhưng lộ rõ vẻ cương quyết. "Không," anh đáp, "Đã quá muộn rồi. Cô muốn làm gì cũng được, Caroline ạ, nhưng tôi không thể nói cho cô ấy biết. Tôi sẽ không nói."

Thật kì lạ; cô ghét anh kinh khủng vì những gì anh vừa nói ra, nhưng cũng chính khoảnh khắc ấy, cô cảm giác giữa mình và anh tồn tại một mối quan hệ gắn bó khăng khít, hơn bất kỳ mối quan hệ nào cô từng có. Họ được nối với nhau bởi điều gì đó thật lớn lao, và dẫu có chuyện gì xảy ra họ cũng không thể bị tách rời. Anh cầm lấy tay cô, đối với cô hành động này thật tự nhiên. Rồi anh đưa sát lên môi và hôn lên bàn tay ấy. Cô thấy rõ môi anh ép lên đốt xương và hơi thở của anh phả lên làn da cô thật ấm áp.

Giá kể khi anh ngẩng đầu lên và buông tay cô ra, khuôn mặt anh có lộ chút gì như sự toan tính, thứ gì khác ngoài nét rối bời đau đớn, có lẽ cô đã làm điều cần làm. Cô sẽ nhấc điện thoại và gọi ngay cho bác sĩ Bentley hoặc cho cảnh sát, cô sẽ thú nhận tất cả. Nhưng đôi mắt anh lại đẫm nước.

"Con bé nằm trong tay cô đấy," nói rồi anh buông tay cô ra. "Tôi gửi nó cho cô. Tôi cứ nghĩ cái trại làm phúc ở Louisville là nơi tốt cho con bé. Tôi đâu có quyết bừa. Con bé cần được chăm sóc y tế mà không phải chỗ nào cũng sẵn. Dù cô định làm gì, tôi cũng tôn trọng ý kiến của cô. Kể cả nếu cô báo nhà chức trách, tôi cũng xin nhận tội. Cô sẽ không phải chịu bất cứ rắc rối nào đâu, tôi hứa đấy."

Nét mặt anh càng nặng nề thêm. Lần đầu tiên Caroline nghĩ tới những việc xa hơn hiện tại, xa hơn đứa bé đang nằm trong căn phòng kế bên. Chưa bao giờ cô tưởng tượng nổi sự nghiệp của họ lại có lúc đứng bên bờ vực thẳm như thế.

"Tôi không biết," cô nói chậm chạp. "Tôi phải nghĩ đã. Tôi không biết phải làm gì nữa."

Anh rút ví ra và móc sạch tiền của trong đó ra. Ba trăm đô la – cô thấy sốc, không ngờ anh lại mang theo nhiều tiền đến thế.

"Tôi không cần tiền của anh," cô nói.

"Tiền này không phải cho cô đâu," anh chặn lời. "Là cho đứa trẻ."

"Phoebe. Tên nó là Phoebe," Caroline vừa nói vừa đẩy mớ tiền đi. Cô nhớ tới tờ khai sinh vẫn còn để trống, chỉ có chữ ký của David viết vội vã trong buổi sang đầy tuyết hôm ấy. Ghi tên của Phoebe, và tên của cô vào đó thì quá dễ.

"Phoebe," anh nói. Anh đứng dậy ra về, bỏ lại tiền trên bàn. "Xin cô, Caroline, đừng vội làm gì khi chưa nói trước với tôi một tiếng. Tôi chỉ xin cô có vậy. Xin cô báo trước cho tôi, dù cô quyết làm gì đi nữa."

Nói rồi anh bỏ đi, và mọi vật vẫn nguyên như nó vốn thế: chiếc đồng hồ trên mặt lò sưởi, khoảng vuông sáng trên sàn nhà, bóng những cành cây trơ trụi hằn lên thật sắc nét. Trong vài tuần nữa lá mới sẽ đâm lên, phủ đầy cây cối và biến đổi những hình ảnh in trên sàn nhà. Cô đã nhìn thấy cảnh này rất nhiều lần rồi, vậy mà căn phòng giờ bỗng trở nên xa lạ quá đỗi, dường như cô chưa từng sống ở đây một phút nào. Bao năm qua hầu như cô chẳng mua thêm mấy thứ cho riêng mình, cô đã sống một cuộc đời thanh đạm, và không ngừng mơ mộng về cuộc sống thực sự của mình ở một nơi nào khác. Chiếc sofa bọc vải kẻ ca rô, cái ghế tựa tương hợp – cô khá ưng mấy món đồ này, cô đã tự tay chọn, vậy mà giờ đây cô bỗng thấy mình có thể rời bỏ chúng thật dễ dàng. Rời bỏ tất cả, cô tự nhủ rồi nhìn quanh nhà, những bức tranh phong cảnh lồng khung, cái ghế để tạp chí đan bằng liễu gai kê sát sofa, chiếc bàn cà phê thấp. Căn hộ nơi cô sống dường như chẳng cá tính gì hơn chỗ sảnh đợi ở bất cứ một phòng khám nào trong thành phố. Mà kể ra thì ngần ấy năm trời đã qua, mà cô có làm được việc gì khác đâu, ngoài chờ đợi?

Cô cố gắng kiềm chế những suy nghĩ của mình. Chắc chắn có một cách khác, ít gây biến động hơn. Giá là mẹ cô, hẳn bà sẽ lắc đầu quầy quậy, rồi gàn cô đừng cố sắm vai Sarah Bernhardt [[8]] mà làm gì. Trong nhiều năm ròng Caroline chẳng biết Sarah Bernhardt là ai cả, nhưng cô vẫn hiểu mẹ cô muốn nói điều gì: mọi sự quá khích đều không tốt, nó xáo trộn trật tự bình lặng trong cuộc sống của họ. Vì vậy Caroline đã luôn cẩn trọng kiểm xét mọi cảm xúc của mình, như người ta kiểm tra các túi trên áo khoác vậy. Cô gạt chúng sang bên và nghĩ sau này mình sẽ tìm lại những cảm xúc ấy, nhưng tất nhiên cô chưa bao giờ đạt được điều đó, cho tới khi cô nhận đứa trẻ này từ tay bác sĩ Henry. Có điều gì đó đã bắt đầu, và giờ thì cô không thể ngăn lại nữa. Hai dòng cảm xúc lẫn lộn xâm chiếm tâm trí cô: sợ hãi và háo hức. Cô có thể rời bỏ nơi này ngay hôm nay. Cô có thể bắt đầu một cuộc sống mới ở một nơi khác. Cô phải làm thế, dù cô định xử trí ra sao với đứa bé này. Thành phố này rất nhỏ, cô khó lòng đi mua sắm mà không gặp những người quen biết. Cô tưởng tượng nếu những lời nói dối của mình cùng tình thương cô dành cho đứa trẻ bị bỏ rơi này lộ ra, hẳn khi ấy đôi mắt Lucy Martin sẽ trố ra rất to với một vẻ thỏa mãn ngấm ngầm. Mọi người sẽ xì xào này nọ, rằng tội nghiệp bà gái già, thèm có con quá đấy mà.

Tôi gửi nó vào tay cô đấy, Caroline. Khuôn mặt anh già sọm đi cả chục tuổi, nhăn nheo như một cái vỏ hồ đào.

* * *

Sáng hôm sau, Caroline dậy thật sớm. Đó là một ngày đẹp trời, cô mở toang cửa sổ, để không khí trong lành và mùi hương của mùa xuân tràn vào. Phoebe thức dậy hai lần trong đêm, khi con bé ngủ lại Caroline đã tranh thủ đóng gói đồ đạc và chất lên xe giữa đêm tối. Hóa ra cô có rất ít tư trang, tất cả đồ đạc đựng trong mấy cái va li là hết, có thể xếp vừa vặn trong thùng xe và ở băng ghế sau của chiếc Fairlane. Kể ra giờ cô có sang Trung Quốc, Miến Điện hay Hàn Quốc cũng chẳng phải bận tâm gì nhiều. Suy nghĩ đó khiến cô phấn chấn hẳn lên. Cô cũng thấy hài lòng vì khả năng xoay xở của chính mình. Đến trưa hôm qua cô đã cắt đặt mọi thứ đâu vào đấy: đồ đạc trong nhà đem tặng cho hội từ thiện, còn căn hộ giao cho công ty dịch vụ vệ sinh dọn dẹp. Cô đã cắt cả hợp đồng điện nước và hợp đồng đặt báo, cũng như viết thư yêu cầu đóng các tài khoản của mình tại ngân hàng.

Caroline ngồi nhấm nháp cà phê và chờ đợi, cho tới khi nghe thấy tiếng sập cửa ở tầng dưới và tiếng xe của Lucy rồ ga phóng đi. Rất nhanh, cô bế Phoebe lên nhưng rồi đứng nán lại một lúc trên ngưỡng cửa căn hộ nơi cô đã sống bao năm đầy hy vọng, những năm tháng ấy bỗng chỉ còn như một giây phút thoáng qua, như thể nó chưa bao giờ tồn tại vậy. Cuối cùng cô đóng chặt cánh cửa và đi xuống.

Cô đặt Phoebe vào một cái hộp để ở băng ghế sau và lái xe vào thành phố, đi qua khu phòng khám với những bức tường quét sơn màu ngọc lam với mái ngói màu cam, qua ngân hàng và mấy tiệm giặt ủi và cả trạm xăng cô rất ưa thích. Khi lái đến nhà thờ cô dừng xe lại trên phố và để Phoebe ngủ yên trong xe. Trong sân nhà thờ có nhiều người hơn cô tưởng, cô đứng lại phía ngoài, vẫn đủ gần để nhìn thấy cái gáy của David Henry đỏ ửng vì giá rét, và mái tóc của Norah Henry đã được vấn lại theo một kiểu cách rất trang nghiêm lịch sự. Không ai để ý đến Caroline. Gót giày của cô ngập lút trên vũng bùn bên rìa vỉa hè. Cô cố giảm trọng lượng lên mấy đầu ngón chân và chợt nhớ lại thứ mùi ẩm mốc của nhà cứu tế mà bác sĩ Henry đã chỉ cô đến tuần trước. Nhớ cả người phụ nữ mặc áo choàng, những lọn tóc rơi tan tác trên sàn nhà.

Từng câu nói trôi đi giữa không gian buổi sáng tĩnh lặng.

Đêm sáng rõ như ban ngày; bóng tối và ánh sáng đối với Người cũng như nhau.

Caroline đã từng thức dậy vào những giờ thất thường nhất. Cô đã đứng bên cửa sổ bếp ăn bánh quy ngay giữa đêm khuya. Ngày và đêm đối với cô không còn phân biệt rạch ròi nữa, cái khuôn mẫu tẻ nhạt của cuộc sống thường ngày cuối cùng cũng bị phá bỏ hoàn toàn.

Norah Henry đưa chiếc khăn tay viền ren lên lau nước mắt. Caroline vẫn còn nhớ cái xiết tay của cô ta khi cô cố rặn để đẩy một đứa bé ra rồi đến đứa kia, và cả những giọt nước mắt của cô ta sau đó nữa. Chuyện này có thể hủy hoại cô ấy, David đã nói vậy. Sẽ ra sao đây, nếu Caroline bước tới cùng đứa trẻ đã mất của cô ta trên tay? Sẽ ra sao nếu cô ngăn chặn nỗi đau này, chỉ để mang tới thêm nhiều nỗi đau khác nữa?

Người đã phơi bày những hành động xấu xa của chúng con trước mặt Người, đã soi rọi những tội lỗi bí mật của chúng con dưới ánh sáng nhân từ của Người.

David Henry đổi chân trụ ngay giữa lúc vị giáo sĩ đang đọc kinh. Lần đầu tiên Caroline bỗng hiểu ra mình sẽ phải làm gì. Họng cô câm nín và hơi thở bỗng đứt quãng. Lớp sỏi phía dưới dường như nhô hẳn lên, xuyên thủng cả đôi giày cô đi, hình ảnh đám người đứng trong sân nhà thờ nhòe đi trong mắt cô, cô nghĩ mình sẽ ngã mất. Nấm mồ, Caroline thầm nghĩ, cô dõi theo đôi chân dài của Norah, cô ta bỗng khuỵu gối xuống lớp bùn, trông vẫn thật duyên dáng. Gió thổi tung tấm mạng ngắn che khuôn mặt Norah, xô lệch cả chiếc mũ tròn cô ta đang đội.

Bởi những gì nhìn thấy chỉ là thoáng qua, những gì không thấy được mới là vĩnh hằng.

Caroline nhìn theo bàn tay vị giáo sĩ, và khi ông cất lời, từng lời nói, dù rất nhỏ, dường như không còn hướng đến Phoebe nữa mà nhắm thẳng vào chính cô, giống như một bản án cuối cùng không thể xoay chuyển được nữa.

Chúng ta trả thân xác của em về với hư không, đất về với đất, tro tàn về với tro tàn, cát bụi về với cát bụi. Chúa ban phước lành cho em và che chở cho em, thiên nhãn của Người mãi rọi ánh hào quang lên em và ban cho em bình an.

Giọng nói ngưng bặt, gió reo xào xạc trên những rặng cây, Caroline gắng hết sức để giữ bình tĩnh, cô đưa khăn tay lên gạt nước mắt, rồi lẹ làng lắc đầu. Cô quay lưng trở về chỗ chiếc xe đang đỗ, nơi Phoebe đang nằm ngủ, một vệt nắng rớt trên khuôn mặt con bé.

Ở cuối mỗi điểm kết thúc lại là một sự khởi đầu mới. Chẳng mấy chốc cô đã rẽ ngoặt ở chỗ xưởng chế tác bia tưởng niệm với những dãy dài bia mộ, thẳng tiến hướng đại lộ liên bang. Thật kỳ quái. Để một xưởng khắc bia mộ án ngữ ngay cửa ngõ thành phố chẳng phải là điềm xấu lắm sao? Nhưng rồi cô cũng bỏ xa tất cả, và đến giao lộ đường cao tốc, cô chọn hướng Bắc, lên Cincinnati để tới Pittsburgh, men theo sông Ohio về nơi bác sĩ Henry đã sống một khoảng thời gian quá khứ đầy bí mật của anh. Con đường còn lại, con đường dẫn đến Loiusville và nhà cứu tế dành cho bệnh nhân thiểu năng trí tuệ, mất hút dần trong gương chiếu hậu.

Caroline lái xe thật nhanh, trong lòng không chút vướng bận, trái tim cô tràn ngập cảm xúc tươi sáng phấn khích. Phải rồi, điềm xấu thì đã sao? Dù gì thì trong mắt người đời, đứa trẻ bên cạnh cô đã chết rồi. Và cô, Caroline Gill, cũng đã biến mất khỏi mặt đất này, cảm giác ấy khiến cô thấy mình nhẹ nhõm, nhẹ nhõm thêm lên, dường như cả chiếc xe cũng sắp cất cánh bay lên trên những cánh đồng im lìm vùng Bắc Ohio. Trong suốt buổi trưa đầy nắng ấy, Caroline lái xe từ Bắc sang Đông, lòng tràn đầy niềm tin tưởng tuyệt đối vào tương lai. Mà tại sao lại không chứ? Vì trong mắt người đời chuyện tồi tệ nhất đã xảy ra với họ, vậy thì chắc chắn là chuyện tồi tệ nhất ấy giờ đã lùi xa sau lưng họ rồi.

-----------

[8] Sarah Bernhardt (1844-1923): tên thật Henriette Rosine Bernhardt, một nữ nghệ sĩ sân khấu người Pháp. Được mệnh danh là giọng ca vàng, bà được xem như một trong những nghệ sĩ lớn nhất của thế kỷ 19

Ngày đăng: 26/04/2013
Người đăng: Beoni
Đăng bài
Bạn thích truyện này?