Gửi bài:

Chương 3

NORAH MỞ MẮT, BÊN NGOÀI, ĐÊM ĐÃ TAN DẦN, TRỜI DẦN chuyển bình minh nhưng mảnh trăng vẫn còn lơ lửng phía xa sau những rặng cây, hắt ánh sáng yếu ớt vào tận trong phòng. Nàng vừa mơ thấy mình lê bước trên mặt đất đã đóng băng, cố tìm kiếm thứ gì đó vừa đánh mất. Những lưỡi cỏ sắt và giòn cứa vào người nàng, để lại những vết thương nhỏ xíu trên da thịt. Nàng choàng tỉnh dậy và giơ tay lên, cảm giác hoảng hốt trong giây lát, nhưng hai bàn tay nàng vẫn lành lặn, móng tay đã giũa và tô sơn gọn ghẽ.

Đứa bé nằm trong chiếc nôi đặt bên cạnh đang khóc. Bằng một cử động mềm mại, xuất phát từ bản năng hơn là sự điều khiển của bộ não, Norah bế bổng nó lên giường. Khoảng đệm cạnh nàng đã lạnh tanh, phủ một màu trắng lạnh lẽo. David đã bị gọi tới phòng khám trong lúc nàng còn đang ngủ. Norah kéo cậu con trai ủ vào cơ thể ấm áp của mình, cởi bỏ nút áo. Đôi bàn tay nhỏ xíu của cậu nhỏ đập nhẹ lên bầu vú căng tròn của mẹ như những cánh bướm; nó ngậm lấy đầu vú. Cơn đau nhói lên trong giây lát, rồi dịu dần đi theo dòng sữa chảy. Nàng vuốt lên làn tóc nhẹ như tơ, lần da đầu mỏng manh của nó. Ôi, kỳ diệu làm sao, sức mạnh của cơ thể. Đôi bàn tay thằng bé nằm yên, ung dung, như những ngôi sao nhỏ điểm trên vầng hào quang của nàng.

Nàng nhắm mắt, nhẹ nhàng thả trôi vào trạng thái nửa ngủ nửa thức. Mạch nguồn ẩn sâu bên trong nàng dần được khai mở. Sữa tuôn chảy và, thật kỳ lạ, Norah thấy như mình đã biến thành một con sông, một ngọn gió, ôm trọn vạn vật: những nhành hoa thủy tiên đặt trên bàn trang điểm, những làn cỏ âm thầm và duyên dáng đâm chồi nảy lộc ngoài kia, những búp lá non trên cây bắt đầu bung ra. Những con ấu trùng nhỏ xíu, trắng muốt như ngọc, nằm ẩn dưới đất sâu, dần chuyển mình biến thành sâu bướm, sâu đo, ong mật. Chim chóc tung cánh bay, ríu rít hót gọi nhau. Của nàng, tất cả là của nàng. Paul siết chặt nắm tay be bé ngay dưới cằm. Hai má nó phập phồng thật nhịp nhàng lúc bú. Xung quanh họ, cả vũ trụ vừa rầm rì , vừa âm thầm, vừa dữ dội.

Trái tim Norah tràng ngập yêu thương, niềm hạnh phúc vô bờ và cả nỗi đau đớn khôn cùng.

Nàng đã không rơi nước mắt trước cái chết của đứa bé gái như David. Con bé mắc chứng xanh tím, David đã nói vậy, nước mắt len lỏi giữa những sợi râu lởm chởm mới mọc trong ngày của anh. Đứa bé ấy không biết đến hít thở khí trời là gì, dù chỉ một lần. Lúc ấy Paul đang nằm trong vòng tay nàng, Norah còn mải ngắm nó: khuôn mặt xinh xinh, trong trẻo và nhăn nheo, cái mũ trùm đầu bằng len có sọc nhỏ, những ngón tay nhỏ xíu, hồng hồng, mảnh mai và hơi cong cong. Móng tay nó bé tí ti, vẫn còn mềm và trong suốt như ánh trăng buổi ban mai. Norah không thể, chưa thể, nhận thức được những lời David nói. Ký ức của nàng về buổi đêm trước đó ban đầu còn rõ ràng, rồi nhòa dần: cơn bão tuyết, và cuốc xe dài lê thê qua những con phố vắng tanh tới phòng khám, David dừng lại ở tất cả các chốt đèn đỏ trong khi nàng vật lộn với những cơn co thắt đau xé người để đẩy đứa trẻ ra, cơ thể run rẩy và căng cứng. Sau đó nàng chỉ còn nhớ những điều rất lặt vặt, rất kỳ lạ: bầu không khí tĩnh lặng xa lạ của căn phòng khám, cảm giác mềm mại khi tấm vải màu xanh đã sờn được phủ lên đầu gối nàng. Mặt bàn khám lạnh toát áp vào tấm lưng trần của nàng. Chiếc đồng hồ mạ vàng của Caroline Gill sáng lấp lánh mỗi lần cô ta vươn tay ra để bơm khí gây tê cho Norah. Sau đó nàng tỉnh dậy thì Paul đã nằm gọn trong vòng tay mình còn David ngồi bên cạnh, khóc nức nở. Nàng ngước mắt lên, nhìn anh, vừa quan tâm lại vừa thờ ơ thích thú. Thực ra đó là do tác dụng của thuốc gây mê, dư chấn của ca sinh nở tạo ra những hormone gây phấn khích. Một đứa con nữa, một đứa trẻ chết non – sao lại thế? Nàng vẫn còn nhớ cơn co giật thứ hai, và giọng nói của David nặng trịch như đá ném xuống mặt nước trắng xóa. Nhưng đứa bé sơ sinh đang nằm trong vòng tay nàng thật hoàn hảo, thật xinh xắn, thế là quá đủ. Không sao đâu anh, nàng vuốt nhẹ lên cánh tay David và nói, không sao đâu.

Cho tới ngày hôm sau, khi họ rời phòng khám, bước ngập ngừng về phía luồng không khí ẩm ướt giá lạnh của buổi chiều, nỗi đau mất mát mới thực sự thấm thía. Trời đã nhá nhem tối, bầu không khí xông lên mùi tuyết tan và hơi đất. Nền trời u ám bao phủ một màu trắng xóa hơi vẩn lên chút mây phía sau những rặng tiêu huyền khẳng khiu trụi lá. Nàng bế Paul – nhẹ bẫng như một chú mèo con – với một cảm giác thật lạ lùng, nàng đang đưa một con người hoàn toàn mới về nhà. Nàng đã trang hoàng căn phòng cẩn thận, kỳ công chọn một chiếc cũi và tủ bàn đóng bằng gỗ thích rất xinh xắn, đã gắn rải rác những con gấu trên tường, đã tự tay may tất cả rèm cửa, tự thêu cả tấm chăn. Mọi thứ đã được sắp xếp đâu vào đấy, đã được chuẩn bị kỹ lưỡng, con trai nàng giờ cũng đã nằm gọn trong vòng tay nàng. Vậy mà chỉ mới đi tới cửa, nàng bỗng đứng sững lại giữa hai cây trụ bê tông chóp nhọn, chân không rời nửa bước.

"David, " nàng cất tiếng gọi. Anh quay lại, khuôn mặt nhợt nhạt cùng mái tóc sẫm màu, trông như một cái cây trên nền trời xám.

"Sao?" anh hỏi. "Sao thế em?"

"Em muốn nhìn thấy con bé," nàng nói, giọng khẽ như một lời thì thầm nhưng đầy vẻ cả quyết giữa không gian tĩnh lặng của bãi đỗ xe. "Chỉ một lần thôi. Trước khi chúng ta rời nơi này. Em phải nhìn thấy nó."

David thọc tay vào túi áo và nhìn xuống mặt đường. Những cột băng nhọn bám trên mái nhà hình dích dắc rơi vỡ tan thành nhiều mảnh, nằm lăn lóc ngay gần bậc tam cấp

"Ôi, Norah," anh cất giọng yếu ớt. "Xin em, ta về nhà thôi. Chúng ta đã có một đứa con trai xinh xắn rồi kia mà."

"Em biết," nàng nói, bởi vì đó là năm 1964 và anh là chồng nàng, nàng luôn làm theo mọi ý muốn của anh. Nhưng nàng vẫn không nhúc nhích nổi một li, nàng không muốn, khi nghĩ tới việc nàng đang bỏ lại một phần rất quan trọng của chính mình. "Ôi! Chỉ một lúc thôi, David. Sao lại không được chứ?"

Mắt họ chạm nhau, và nỗi đau đớn trong mắt anh khiến mắt nàng đẫm lệ.

"Con bé không có ở đây." Giọng David khô khốc. "Đó là lý do. Có một khu nghĩa địa trong khuôn viên trang trại nhà Bentley. Ở hạt Woodford. Anh đã nhờ cậu ấy đưa con bé đến đó. Sau này, tới mùa xuân, ta có thể tới thăm lại con. Ôi, Norah, xin em. Em làm tim anh tan nát."

Norah nhắm mắt lại, cảm giác kiệt quệ trước ý nghĩ một đứa trẻ sơ sinh, chính con gái nàng, nằm dưới ba tấc đất lạnh lẽo giữa tiết tháng Ba. Đôi tay nàng đang bế Paul cứng đơ lại và trơ như đá, nhưng toàn thân lại có cảm giác như sắp tan chảy, như thể nàng cũng sẽ hóa thành nước trôi xuống các mương rãnh và biến mất cùng tuyết lạnh. David nói đúng, Norah tự nhủ, nàng không muốn thấy cảnh này. Khi anh bước lên bậc tam cấp và quàng tay quanh vai nàng, nàng gật đầu, và họ cùng đi qua bãi đỗ xe vắng tanh, bước về phía ánh chiều đang dần tắt. Anh kiểm tra ghế ngồi, lái xe về nhà thật cẩn trọng, máy móc; họ bế Paul qua mái hiên trước, qua cửa vào; và đặt thằng bé vẫn đang ngủ say sưa vào căn phòng của nó. Cách David chăm chút mọi việc, cách anh săn sóc nàng đã đem đến cho nàng cảm giác gì đó giống như được xoa dịu, và nàng không còn đề cập với anh về ước nguyện muốn nhìn thấy con gái họ thêm một lần nào nữa.

Nhưng giờ đêm nào nàng cũng mơ thấy mình đánh mất thứ gì đó.

Paul đã ngủ say. Bên ngoài cửa sổ, những cành tiêu huyền lấm tấm lộc non khẽ rung rinh trên nền trời phơn phớt màu chàm. Norah xoay người, chuyển Paul sang bú bầu vú bên kia, và nhắm mắt lại, thả trôi vào giấc ngủ. Đột nhiên nàng tỉnh giấc, thấy người ướt đẫm và nghe có tiếng khóc ngằn ngặt, khi ấy ánh trăng đã tràn ngập khắp căn phòng. Hai bầu vú của nàng đã lại căng đầy sữa; đã ba tiếng trôi qua. Nàng ngồi dậy, thấy trong người nặng nề và trì trệ, khối cơ bụng nhão tới mức trũng hẳn xuống mỗi khi nàng ngả lưng, đôi bầu vú căng cứng vì sữa, các khớp xương vẫn còn nhức nhối sau ca sinh nở. Dưới sảnh, những tấm ván sàn kêu kẽo kẹt.

Nằm trên bàn thay tã, Paul càng khóc dữ hơn, người nó vằn lên những nốt đỏ lốm đốm. Nàng cởi hết quần áo ướt và chiếc tã vải bông sũng nước của nó. Làn da thằng bé thật mỏng manh, cẳng chân nó khẳng khiu và đỏ au như cái cánh gà đã vặt trụi lông. Sâu thẳm trong tâm khảm của nàng, đứa con gái đã chết vẫn còn quanh quẩn đâu đó, đang dõi theo họ, âm thầm lặng lẽ. Nàng chấm cồn vào rốn Paul, vứt chiếc tã bẩn vào xô giặt, rồi mặc quần áo sạch cho nó.

"Con yêu," nàng bế nó lên, miệng thì thầm. "Bé ngoan của mẹ," nói rồi, nàng bế thằng bé lên và đi xuống tầng dưới.

Trong phòng khách, mấy tấm mành mành vẫn buông, rèm rủ kín. Norah ngả lưng lên chiếc ghế bọc da êm mềm đặt trong góc phòng, cởi nút áo. Dòng sữa lại tuôn trào trong nhịp chảy ào ạt mãnh liệt tưởng như không gì ngăn nổi, một sức mạnh dường như xóa tan hoàn toàn bản ngã của nàng trong quá khứ. Ta bừng tỉnh để rồi mê ngủ[6]. Nàng thầm nghĩ trong lúc ngả lưng xuống ghế, tâm trí bỗng lẫn lộn bởi không tài nào nhớ ra ai đã viết câu thơ này.

Căn nhà lặng im như tờ. Tấm màn chắn lò sưởi đóng im ỉm, ngoài trời lá cây reo xào xạc. Đằng xa, cánh cửa phòng tắm bật mở rồi đóng lại, tiếng nước chảy nghe thật khẽ. Bree, em gái nàng, rón rén bước xuống cầu thang, trên người mặc một chiếc áo sơ mi tay dài thượt phủ kín cả đầu ngón tay. Hai cẳng chân cô trắng muốt, đôi bàn chân trần nhỏ nhắn nổi bật trên nền sàn lát gỗ.

"Đừng bật đèn," Norah cất tiếng.

"Vâng." Bree bước tới và vuốt nhẹ đầu ngón tay lên đầu Paul.

"Cháu của dì sao rồi?" Cô nựng. "Paul xinh có khỏe không?"

Norah nhìn khuôn mặt bé xíu của con trai, ngỡ ngàng trước cái tên của nó, như mọi khi. Thằng bé vẫn chưa đủ lớn để mang cái tên ấy, với nó cái tên chỉ như một dải băng keo tay, một vật gì đó dễ dàng rơi tuột đi và biến mất. Nàng đã đọc – ở đâu nhỉ? Nàng chẳng nhớ nữa – có những người không chịu đặt tên cho con mình trong mấy tuần đầu, vì cảm giác chúng vẫn chưa thực sự hiện diện trên trái đất này mà vẫn còn là những thực thể ở giữa hai thế giới.

"Paul." Nàng nói to, tự tin và cả quyết, giọng ấm áp như một viên đá đặt dưới nắng. Một niềm tin vững chắc.

Nàng thầm nói thêm với chính mình, Phoebe.

"Nó đói đấy," Norah nói. "Lúc nào nó cũng đói thôi."

"A. Thế thì giống dì nó rồi. Em đi lấy ít bánh mì với cà phê đây. Chị muốn ăn chút gì không?"

"Lấy cho chị ít nước thôi," nàng đáp, mắt dõi theo Bree rời khỏi phòng, chân tay cô thật dài và duyên dáng. Thật lạ, em gái nàng, người hoàn toàn trái ngược với nàng, báo ứng của nàng, lại là người nàng muốn có mặt ở đây, nhưng sự thực là như vậy.

Bree mới chỉ hai mươi tuổi, nhưng là típ người cứng đầu và tự tin vào bản thân đến độ lắm lúc Norah ngỡ chính cô mới là chị. Ba năm trước, khi còn là một nữ sinh lớp mười một trung học, Bree đã bỏ trốn cùng một dược sĩ sống bên kia đường, một người đàn ông độc thân gấp đôi tuổi cô. Mọi người đều chê trách anh chàng dược sĩ, ngần ấy tuổi đầu thì phải biết điều hơn lẽ thiệt chứ. Về phần Bree, họ cho rằng những hành động điên rồ như thế là hệ quả của nỗi đau đột ngột mất đi người cha giữa lúc cô bé đang tuổi mới lớn, cái tuổi thật mong manh bất ổn làm sao, ai cũng đồng ý như vậy cả. Họ còn đồn đoán rằng cuộc hôn nhân này sẽ chả mấy chốc mà tan, mà quả có thế thật.

Nhưng nếu mọi người tưởng rằng cuộc hôn nhân đổ vỡ sẽ quật ngã được Bree thì họ đã nhầm to. Khi Norah còn con gái, thế giới đã dần đổi khác, và Bree đã không trở về nhà trong sự thuần phục và hổ thẹn như mong đợi. Thay vì thế, cô ghi danh vào đại học, đổi tên từ Brigitte thành Bree vì cô thích cách phát âm của từ này: phóng khoáng, cô nói vậy, và tự do.

Bà mẹ của hai cô gái, nhục nhã vì cái đám cưới đầy tai tiếng và vụ ly dị còn tai tiếng hơn, đã cưới ngay một viên phi công làm cho hãng TWA và chuyển tới St. Louis sống, bỏ mặc hai chị em tự xoay xở. Chậc, ít nhất thì mẹ cũng có một đứa con gái biết lẽ phải trái, bà đã nói vậy, ngẩng đầu lên khỏi hộp đồ sứ bà đang cặm cụi đóng gói. Khi ấy là mùa thu, không khí hanh hao, lá vàng đổ khắp nơi. Mái tóc vàng ánh kim của bà cuộn gọn thành một cái búi nhẹ tênh, và những đường nét tinh tế trên khuôn mặt bà bỗng dịu lại vì cảm xúc bất chợt. Ôi, Norah, con không biết mẹ biết ơn Chúa tới mức nào vì đã cho mẹ một đứa con ngoan ngoãn như con đâu. Dù con có không bao giờ lập gia đình, con vẫn luôn là một quý bà. Norah lúc ấy đang dở tay xếp tấm ảnh chân dung bố được đóng khung vào thùng các tông, đã đỏ bừng mặt vì khó chịu và giận dữ. Nàng cũng bị sốc bởi những hành động điên rồ, sự táo tợn của Bree, nàng cảm thấy giận dữ vì dường như mọi quy tắc đều đã bị đảo lộn, vì Bree có vẻ như chẳng bị ảnh hưởng tí gì bởi tất cả mọi chuyện – đám cưới, vụ ly dị, tai tiếng.

Nàng căm ghét những gì Bree đã gây ra cho họ.

Nàng ao ước trong tuyệt vọng, giá mà chính nàng mới là người làm những việc ấy.

Nhưng chuyện đó sao có thể xảy ra với nàng được. Lúc nào nàng cũng ngoan hiền; đó là bản chất của nàng. Nàng sống gần gũi với bố, một người đàn ông tính tình xuề xòa, vô tổ chức, một chuyên gia về cừu, ông thường dành nhiều ngày trời giam mình trong phòng kín ở tầng trên cùng để nghiền ngẫm các tờ chuyên san, hay ở trạm nghiên cứu, đứng giữa lũ cừu với đôi mắt vàng ệch nhìn nghiêng nghiêng vẻ lạ lẫm. Nàng yêu ông, và cả cuộc đời mình, nàng cảm thấy mình có bổn phận phải làm cách nào đó bù đắp lại sự thờ ơ của ông đối với gia đình; và nỗi thất vọng của mẹ nàng vì đã trót trao cuộc đời mình cho một lão già gàn dở. Khi ông mất, sức mạnh thôi thúc nàng sắp xếp mọi việc vào đúng trật tự của nó và hàn gắn thế giới quanh nàng chỉ càng mạnh mẽ thêm. Vì vậy nàng lại tiếp tục cuộc sống ấy, lặng lẽ học tập và làm tất cả những gì mọi người mong mỏi ở nàng. Sau khi tốt nghiệp, nàng làm việc sáu tháng ở công ty điện thoại, một công việc mà nàng chẳng lấy gì làm thích thú và đã rất vui sướng được từ bỏ nó khi kết hôn với David. Cuộc gặp gỡ giữa họ tại gian hàng đồ lót trong khu trung tâm mua sắm WolfWile, đám cưới kín đáo chóng vánh của họ, là điều gần với sự điên rồ nhất mà Norah từng làm.

Bree vẫn hay cợt rằng, cuộc đời của Norah chẳng khác gì một bộ phim sitcom chiếu trên TV. Với chị thế là ổn, cô nói, hất mớ tóc dài ra sau lưng, chiếc vòng bạc rộng bản đẩy lên gần sát khuỷu tay. Em ấy à, em chẳng chịu thấu đâu. Chắc em sẽ phát điên chỉ trong một tuần mất. Một ngày chứ!

Norah ngấm ngầm căm giận, khinh bỉ và cả ghen tị với Bree, nhưng nàng cắn răng không nói ra; Bree tham gia các lớp học về Virgina Wolf[7], chuyển đến sống cùng ông chủ một nhà hàng thực phẩm dinh dưỡng ở Louisville, và thôi không ghé thăm nữa. Kể cũng lạ, khi Norah mang bầu, mọi chuyện thay đổi hẳn. Bree lại xuất hiện, mang tới những món đồ kết ren và vòng cổ chân bằng bạc nhập khẩu từ Ấn Độ, cô tìm thấy mấy món này trong một cửa tiệm ở San Francisco. Cô còn mang tới từng tập giấy nến in những lời khuyên về phương pháp cho con bú khi nghe tin Norah tính không dùng tới sữa ngoài. Khi ấy, Norah thực sự mừng rỡ khi được gặp cô. Mừng vì những món quà vừa dễ thương vừa thiếu thực tế, mừng vì sự hỗ trợ của cô. Vào năm 1964,cho con bú sữa mẹ là một việc làm táo bạo, và nàng hầu như không tìm được những thông tin mình cần. Bà mẹ của họ từ chối bàn luận về ý tưởng này; còn mấy bà mấy chị trong tổ khâu vá của nàng thì kêu rằng họ sẽ mang ghế vào phòng tắm ngồi để nàng thoải mái cho con bú. Nghe chuyện, Bree đã làm nàng thấy nhẹ nhõm biết bao khi hét ầm lên. Mấy bà hay làm bộ quá đấy! Cô chì chiết. Kệ họ đi chị.

Tuy vậy, dù biết ơn sự hỗ trợ của Bree, đôi khi Norah vẫn có cảm giác bất an. Trong thế giới của Bree, thế giới dường như chủ yếu tồn tại ở một nơi nào đó khác, ở California, Paris hay New York, những người phụ nữ trẻ có thể để ngực trần dạo bộ quanh nhà, chụp những bức ảnh của chính mình với đứa bé kề sát bộ ngực đồ sộ, viết những bài báo cáo cổ động cho giá trị dinh dưỡng của sữa mẹ. Chuyện đó là hoàn toàn tự nhiên, nó tồn tại trong bản năng của chúng ta, loài động vật có vú. Bree lý luận, nhưng chỉ riêng cái ý nghĩ coi bản thân mình như động vật có vú, bị chi phối bởi bản năng và được miêu tả bằng những từ ngữ kiểu bú mớm (nàng thấy nghe cũng na ná như thú tính, đã hạ thấp một hình ảnh cao đẹp xuống ngang tầm với một trại súc vật), đã khiến Norah đỏ bừng mặt và chỉ muốn biến ngay khỏi phòng.

Giờ Bree đã trở lại, trên tay bưng một khay đầy cà phê, bánh mì tươi, bơ. Mái tóc dài của cô xõa xuống bờ vai khi cô nghiêng người đặt chiếc cốc cao đầy nước mát lạnh lên chiếc bàn kê cạnh Norah. Cô bỏ cái khay lên bàn uống cà phê và ngồi xuống sofa, đôi chân trắng muốt thu lại phía dưới.

"Anh David đi rồi hả chị?"

Norah gật đầu. "Chị còn không biết anh ấy dậy lúc nào."

"Chị nghĩ anh ấy cứ vùi đầu vào công việc như vậy có tốt không?"

"Có chứ," Norah nói giọng cả quyết. "Chị thực sự nghĩ như vậy." Bác sĩ Bentley đã nói chuyện với các bác sĩ khác ở phòng khám, và họ đề nghị David nghỉ ngơi một thời gian, nhưng anh từ chối. "Chị nghĩ lúc này anh ấy cứ bận bịu là tốt nhất."

"Thật không? Còn chị thì sao?" Bree hỏi, há miệng cắn một miếng bánh.

"Chị à? Thành thật mà nói, chị rất ổn."

Bree phẩy tay. "Chả lẽ chị không nghĩ là..." cô dợm giọng , nhưng trước khi cô kịp phê phán David, Norah đã ngắt lời.

"Thật may vì có em ở đây," nàng nói. "Sẽ chẳng có ai chịu nói chuyện với chị đâu."

"Vớ vẩn. Nhà này chả đầy những người muốn nói chuyện với chị đấy thôi."

"Chị có một cặp sinh đôi, Bree à." Norah nói khẽ, cảm nhận rõ ràng giấc mơ của mình, giấc mơ với khung cảnh lạnh lẽo trống trải, và cuộc tìm kiếm điên dại. "Sẽ chẳng có ai đả động gì về con bé. Họ cư xử như muốn nói chị đã có Paul rồi, chị nên tự cảm thấy hài lòng mới phải. Như thể mọi cuộc đời đều có thể thay thế được. Nhưng chị có một cặp sinh đôi. Chị có cả một đứa con gái nữa..."

Nàng ngừng lời, trong họng chợt thấy nghèn nghẹn.

"Ai cũng buồn cả," Bree dịu dàng nói. "Vừa vui lại vừa buồn, tất cả đều cùng một lúc. Họ không biết phải nói sao cho phải, vậy thôi."

Norah bế bồng Paul, giờ đang say ngủ, áp vào vai mình. Hơi thở của thằng bé phả ra âm ấm nơi cổ nàng; nàng xoa lên lưng nó, vẫn chưa lớn hơn tay nàng là bao.

"Chị biết," nàng nói. "Chị biết chứ. Nhưng mà."

"Lẽ ra David không nên quay lại làm việc sớm như thế," Bree nói. "Chị mới chỉ sinh được có ba ngày thôi mà."

"Anh ấy tìm thấy niềm an ủi trong công việc," Norah nói. "Chị mà có việc, chị cũng đi làm ngay."

"Không," Bree lắc đầu. "Không, chị sẽ không làm thế đâu, Norah. Chị biết đấy, em ghét phải nói ra, nhưng David đang tự khép mình lại, khóa chặt mọi cảm xúc. Còn chị thì vẫn cố gắng tự khỏa lấp nỗi trống trải. Hàn gắn mọi thứ. Nhưng chị không thể."

Norah nhìn em gái, tự hỏi không hiểu anh chàng dược sĩ đã phải kiềm chế những cảm xúc nào; vì dù rất cởi mở, phóng khoáng, nhưng Bree chưa bao giờ đả động tí gì đến cuộc hôn nhân chóng vánh của mình. Và dẫu cảm thấy có phần xuôi theo ý kiến em gái, nàng vẫn thấy mình có bổn phận phải bảo vệ David , anh đã vượt qua nỗi đau của riêng mình để chăm lo mọi việc: từ cái đám ma lặng lẽ không một người tham dự, rồi giải thích với bạn bè, cả việc nhanh chóng thu dọn những tàn dư của nỗi đau buồn nữa."

"Anh ấy cần phải làm theo cách của riêng mình," nàng nói, với tay ra kéo tấm mành mành lên. Bầu trời đã chuyển màu xanh lơ tươi sáng, và dường như chồi non trên những cành nhánh đã phình to thêm chỉ sau vài giờ. "Bree à, chị ước gì chị được nhìn thấy con bé. Mọi người sẽ nghĩ như thế là gớm ghiếc, nhưng chị vẫn ước được thấy nó. Ước gì chị được chạm vào nó, chỉ một lần thôi cũng được."

"Chẳng có gì là gớm ghiếc đâu chị," Bree dịu dàng. "Em nghĩ ý nguyện đó là hoàn toàn chính đáng."

Sau đó là một khoảng im lặng, cho tới khi Bree phá vỡ nó một cách vụng về, ngập ngừng, bằng cách đưa cho Norah miếng bánh phết bơ cuối cùng.

"Chị không đói." Norah đáp dối.

"Chị phải ăn đi," Bree ép. "Đằng nào chị chả sụt cân. Đấy là một trong những lợi ích to lớn không được nhắc đến của việc cho con bú đấy nhé."

"Không là thế nào," Norah nói. "Em chả nhai nhải suốt còn gì."

Bree cười lớn. "Chắc vậy quá."

"Thành thực mà nói," Norah vừa nói, vừa giơ tay cầm cốc nước lên. "Chị mừng vì có em ở đây."

"Ôi dào," Bree nói, vẻ hơi ngượng nghịu. "Em còn ở đâu được nữa?"

Cái đầu Paul nằng nặng âm ấm, mớ tóc dày mềm như tơ của thằng bé cọ nhẹ lên cổ nàng. Norah tự hỏi không biết nó có nhớ đứa em sinh đôi không, nó còn nhớ cái hình hài giờ đã không còn tồn tại trên đời, người bạn đồng hành thân thiết suốt quãng thời gian vô cùng ngắn ngủi trong đời nó hay không? Liệu cảm giác mất mát có theo nó suốt đời? Nàng vuốt nhẹ lên đầu thằng bé, mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, thoáng thấy vầng trăng tròn xa xa đang nhạt dần sau những rặng cây, chỉ còn là một vệt lờ mờ trên nền trời xanh.

* * *

Sau đó, trong khi Paul ngủ, Norah tranh thủ tắm táp tí chút. Nàng đã mặc thử ba bộ đồ khác nhau, nhưng rồi bỏ cả: váy ôm eo, quần bó sát hông. Trước đây người nàng lúc nào cũng thon gọn, nhỏ nhắn và cân đối, nên khi trông thấy thân hình mới xồ xề của mình, nàng vừa sửng sốt lại vừa buồn bực. Cuối cùng, trong cơn tuyệt vọng, nàng đành xỏ tạm bộ áo liền quần bằng vải bông chéo đã cũ dành cho bà bầu rộng thùng thình, mặc dù nàng đã thề sẽ không động đến nó lần thứ hai. Mặc quần áo xong, nàng để nguyên chân trần đi loanh quanh trong nhà, từ phòng này qua phòng khác. Cũng giống như thân hình nàng, những căn phòng đều rối tung, lộn xộn, bừa bộn và hỗn loạn. Những lớp bụi mờ phủ khắp nơi, quần áo vứt vạ vật, còn ga trải giường thì xô lệch ngổn ngang trên những chiếc giường chưa được dọn. Chỉ còn một khoảng sạch duy nhất trên lớp bụi phủ kín chiếc bàn phấn, nơi David đã đặt một bình cắm đầy hoa thủy tiên, mép cánh hoa đã ngả màu nâu; cả những ô cửa sổ cũng mờ bụi. Ngày kia Bree sẽ về và mẹ nàng sẽ đến thăm. Nghĩ đến đó, Norah ngồi phịch xuống mép giường, cảm giác bất lực hoàn toàn, chiếc cà vạt của David vắt lỏng lẻo trên tay. Sự bừa bộn của căn nhà đè nặng lên nàng, như thể mỗi tia nắng cũng kết thành hình thành khối, mang sức nặng của riêng nó. Nàng không còn chút sức lực nào để chống lại nó nữa. Đáng buồn hơn ở chỗ, nàng cũng chẳng thèm quan tâm nữa.

Chuông cửa reo vang. Văng vẳng tiếng chân Bree giậm thình thịch qua các phòng.

Norah nhận ra những giọng nói đó ngay. Một lúc lâu sau đó nàng vẫn ngồi nguyên chỗ cũ, cảm giác kiệt quệ, tự nhủ làm thế nào để nhờ Bree đuổi họ đi. Nhưng những giọng nói cứ vòng lại gần hơn, sát cầu thang rồi lại nhỏ dần khi họ cùng bước vào phòng khách; đó là tổ sinh hoạt tối tại nhà thờ, họ mang theo đủ thứ quà cáp, háo hức được nhìn thấy đứa bé mới chào đời. Hai nhóm bạn của nàng đã đến từ trước, một nhóm từ tổ khâu vá và nhóm kia từ câu lạc bộ sơn vẽ đồ sứ, họ chất đầy đồ ăn thức uống trong tủ lạnh, chuyền tay nhau bế Paul như một chiến lợi phẩm. Norah cũng đã nhiều lần làm điều tương tự với mấy bà mẹ mới sinh con, thế nhưng giờ nàng thực sự sốc khi thấy mình cảm thấy oán giận thay vì biết ơn: sự phiền nhiễu, gánh nặng từ những lá thư cảm ơn, và nàng còn chẳng thèm quan tâm đến những thứ đồ ăn thức uống kia nữa cơ.

Bree đang gọi. Norah bước xuống cầu thang mà không thèm tô son hay thậm chí chỉnh trang lại đầu tóc. Chân nàng vẫn để trần.

"Trông tôi kinh lắm," nàng tuyên bố đầy vẻ thách thức khi bước vào phòng.

"Ồ, không đâu," Ruth Starling nói, rồi vỗ vỗ lên chiếc sofa đặt ngay bên cạnh, mặc dù Norah, với một cảm giác thỏa mãn kỳ lạ, có thể cảm thấy những cái liếc mắt kín đáo được trao đổi giữa đám người còn lại. Nàng ngoan ngoãn ngồi xuống, hai chân bắt tréo lại nơi mắt cá, tay khoanh lại trong lòng như hồi bé đi học.

"Paul vừa mới ngủ rồi," nàng nói. "Tôi sẽ không đánh thức thằng bé dậy đâu." Giọng nói của nàng đầy giận dữ, vẻ thách thức thực sự.

"Không sao đâu, cháu yêu," Ruth nói. Bà ta đã gần bảy mươi tuổi, mái tóc bạc trắng mỏng mảnh được tạo kiểu cẩn thận. Ông chồng bà chỉ mới năm mươi đã mất từ năm ngoái. Norah vẫn tự hỏi bà ta đã phải trả giá những gì, đang phải trả giá những gì để duy trì nhan sắc và vẻ ngoài tươi tỉnh như vậy? "Cháu đã phải trải qua bao nhiêu chuyện thế còn gì," Ruth lại nói.

Norah lại cảm thấy con gái mình đang ở đâu đây, một sự hiện diện nằm ngoài tầm mắt của nàng, và phải cố lắm nàng mới kìm nổi ước muốn mãnh liệt được chạy lên trên gác để nhìn thấy Paul. Tôi đang phát điên đây, nàng tự nhủ, và cắm mắt nhìn xuống sàn nhà.

"Mọi người dùng trà nhé?" Bree hỏi, mặt cố tỏ vẻ tươi tỉnh. Trong khi chưa ai kịp trả lời thì cô đã biến nhanh vào bếp.

Norah phải gắng hết sức mới tập trung vào câu chuyện được: nào là phải dùng vải bông hay vải phin để làm gối cho bệnh viện, mọi người nghĩ sao về linh mục mới về, rồi có nên tặng chăn cho Đội Cứu tế hay không. Sau đó Sally thông báo đêm qua Kay Marshall đã sinh con, một đứa bé gái.

"Ba cân đúng," Sally nói. "Trông Kay tuyệt lắm. Con bé xinh lắm cơ. Bọn họ đặt tên nó là Elizabeth, theo tên bà ngoại. Họ còn nói ca này đẻ dễ lắm."

Rồi im lặng bao trùm, khi mọi người nhận thấy điều gì đang xảy ra. Norah có cảm giác sự im lặng bắt nguồn từ đâu đó sâu bên trong nàng và lan tỏa ra cả căn phòng. Sally nhìn lên, mặt đỏ bừng vì hối hận.

"Ôi," chị ta nói. "Ôi Norah. Chị xin lỗi."

Norah muốn nói câu gì đó để đưa mọi thứ trở lại bình thường. Những lời cần nói lởn vởn trong đầu nàng, nhưng nàng dường như không cất nổi thành lời. Nàng ngồi im lặng, rồi sự im lặng trở thành một cái hồ, một đại dương, có thể nhấn chìm tất cả bọn họ.

Cuối cùng, Ruth nhanh miệng nói. "Norah à, ta rất tiếc. Chắc cháu mệt lắm rồi phải không." Bà ta lôi ra một gói lớn bọc giấy màu sặc sỡ, đính hàng chùm ruy băng uốn xoăn tít. "Mọi người mang đến cả một bộ sưu tập nhé, chắc cháu đã có đủ mọi loại ghim cài tã mà một bà mẹ ao ước rồi đấy."

Cả đám phụ nữ cùng cười ồ nhẹ nhõm. Norah cũng mỉm cười và mở chiếc hộp, xé lớp giấy bọc ngoài: một chiếc ghế tập đi, có khung kim loại và đệm ngồi bọc vải, gần giống với chiếc ghế ở nhà một người bạn mà nàng từng trầm trồ thích thú.

"Tất nhiên phải mấy tháng nữa thằng bé mới dùng ghế này được," Sally nói. "Chúng tôi không nghĩ ra được gì hay hơn để dành cho cháu tập đi."

"Còn đây nữa," Flora Marshall đứng dậy, tay cầm hai gói mềm mềm.

Flora là người lớn tuổi nhất trong nhóm, thậm chí còn hơn tuổi Ruth, nhưng rất dẻo dai và hoạt bát. Bà đã đan chăn cho tất cả trẻ sơ sinh trong nhà thờ. Nghĩ rằng Norah sẽ sinh đôi sau khi ước lượng kích cỡ bụng nàng, bà đã đan tặng hẳn hai tấm chăn, miệt mài làm việc trong suốt buổi sinh hoạt tối và cả giờ nghỉ uống cà phê ở nhà thờ, túi lúc nào cũng đầy ắp những cuộn len mềm màu sắc sặc sỡ. Màu vàng nhạt và xanh lục, xanh lơ và hồng đan xen với nhau – bà vẫn đùa rằng mình không dám cá là sinh đôi trai hay gái. Nhưng sinh đôi, bà chắc chắn thế. Lúc đó, không ai để ý đến lời bà nói.

Norah đỡ lấy hai cái gói, cố nén nước mắt. Chất len mềm quen thuộc rũ xuống bụng khi nàng mở gói đầu tiên, và nàng cảm thấy đứa con gái đã mất dường như ở đâu đó rất gần. Norah thấy lòng tràn ngập niềm biết ơn Flora, bằng kinh nghiệm một người bà, bà thật biết mình phải làm gì. Nàng xé giấy bọc chiếc gói thứ hai, háo hức muốn thấy tấm chăn còn lại, chắc cũng rực rỡ và mềm mại như chiếc đầu tiên.

"Bộ này hơi to một chút," Flora xin lỗi ngay khi một bộ áo liền quần rơi xuống bụng nàng. "Nhưng không sao đâu, bọn trẻ con tầm tuổi này lớn nhanh như thổi ấy mà."

"Còn cái chăn kia đâu?" Norah hỏi vặn. Nàng nghe thấy chính giọng nói của mình, gay gắt như tiếng thét của một con chim, và cảm thấy sững sờ; cả đời mình nàng vẫn có tiếng là người điềm tĩnh, nàng vẫn thường tự hào về khí chất nhu hòa và những lựa chọn cẩn trọng của mình. "Cái chăn cô đan cho con gái cháu đâu rồi?"

Flora đỏ bừng mặt và liếc nhìn khắp phòng cầu cứu sự giúp đỡ. Ruth cầm lấy tay Norah siết thật mạnh. Norah cảm nhận thấy làn da mềm mại và sức ép mạnh mẽ đáng kinh ngạc trên từng ngón tay của bà ta. David đã từng nói cho nàng biết tên của mấy đốt xương đó, nhưng nàng không tài nào nhớ nổi. Tệ hơn nữa, nàng đang khóc.

"Nào, nào. Cháu đã có một đứa con trai kháu khỉnh rồi cơ mà," Ruth dỗ dành.

"Nó có một đứa em gái nữa," Norah thì thầm, giọng cả quyết, và nhìn vào từng khuôn mặt. Họ đã đến đây vì lòng tốt. Họ rất buồn, phải, vậy mà nàng còn vừa làm cho họ buồn thêm. Chuyện gì đang xảy ra với nàng vậy? Cả đời mình nàng đã cố gắng hết sức để làm những việc đúng đắn cơ mà. "Tên nó là Phoebe. Tôi muốn có ai đó gọi tên nó. Mọi người có nghe tôi nói gì không?" Nàng đứng dậy. "Tôi muốn có ai đó nhớ tên con bé."

Sau đó một tấm khăn mát được đắp lên trán nàng, rồi những bàn tay giúp nàng nằm xuống sofa. Họ bảo nàng nhắm mắt lại, và nàng làm theo. Nước mắt tuôn rơi lã chã sau làn mi như suối chảy, nàng không tài nào kìm nổi. Mọi người lại bàn tán phải làm thế nào, những tiếng nói xoáy tròn như tuyết bay trong gió. Có người nói, chuyện này chẳng có gì lạ. Ngay cả trong trường hợp khả quan nhất thì tình trạng suy sụp tinh thần đột ngột chỉ vài ngày sau khi sinh cũng không có gì bất thường. Họ phải gọi cho David, một người gợi ý, nhưng rồi Bree xuất hiện, điềm tĩnh và lịch sự, tiễn hết cả đám phụ nữ ra cửa. Khi bọn họ đã về hết, Norah mới mở mắt ra và nhìn thấy Bree đang đeo chiếc tạp dề của nàng, dải dây buộc viền đăng ten dích dắc thắt hờ ôm lấy vòng eo thon gọn.

Tấm chăn của Flora Marshall vẫn nằm vạ vật trên sàn nhà giữa đống giấy gói, nàng nhặt nó lên, luồn ngón tay vào những thớ sợi mềm mại. Norah gạt nước mắt nói.

"David nói tóc con bé màu nâu sẵm. Giống tóc anh ấy."

Bree nhìn chị chăm chú. "Norah, chị nói chị định tổ chức một buổi lễ tưởng niệm đúng không. Còn chờ gì nữa? Sao không làm ngay bây giờ? Có lẽ nó sẽ an ủi chị được phần nào."

Norah lắc đầu. "Những gì David nói, những gì mọi người nói đều có lý cả. Có lẽ chị nên tập trung vào đứa con chị đã có."

Bree nhún vai. "Nhưng chị có làm thế đâu. Chị càng cố không nghĩ đến con bé, chị lại càng nhớ nó nhiều hơn. David chỉ là một bác sĩ," cô chêm vào. "Anh ấy có biết tất cả mọi thứ đâu. Anh ấy đâu phải là Chúa Trời."

"Tất nhiên là không," Norah nói. "Chị biết chứ."

"Nhiều lúc em không dám chắc chị có biết thật không nữa."

Norah không đáp lời. Những đường vân gỗ chạy ngoằn ngoèo trên mặt sàn bóng láng, bóng lá khoét những lỗ đen lên nắng. Chiếc đồng hồ trên lò sưởi khẽ kêu tích tắc. Nàng nghĩ mình nên nổi giận mới phải, nhưng không. Ý tưởng về một buổi lễ tưởng niệm dường như đã giúp nàng thoát khỏi tình trạng kiệt quệ, nó nảy sinh trong đầu nàng ngay từ lúc còn đứng trên những bậc tam cấp nơi phòng khám và cho tới tận giây phút này vẫn chưa biến mất.

"Có lẽ em nói đúng," nàng nói. "Chị không biết. Có lẽ vậy. Một buổi lễ nhỏ thôi. Thật kín đáo nữa."

Bree đưa nàng chiếc điện thoại. "Đây. Chị cứ hỏi đi."

Norah hít một hơi thật sâu và bắt đầu. Trước tiên nàng gọi cho vị linh mục mới đến và bỗng thấy mình đang giải thích rằng nàng muốn tổ chức một buổi lễ, vâng, và tổ chức ngoài trời, ở sân nhà thờ. Vâng, nắng hay mưa cũng không sao. Cho Phoebe, con gái tôi, con bé chết ngay khi mới sinh. Hai tiếng tiếp đó, ngần ấy từ ngữ lại được nàng nhắc đi nhắc lại: với người bán hoa, với người phụ nữ phụ trách mục rao vặt trên tờ The Leader, với các bạn nàng ở tổ khâu, họ đã nhận làm hoa cho buổi lễ. Mỗi lần như vậy, cảm giác bình yên trong nàng lại lớn dần lên, giống như sự giải thoát khi Paul ngậm lấy đầu vú mẹ bú lấy bú để, kéo nàng trở lại với thực tại.

Bree đã đi học, còn Norah đi bộ quanh căn nhà tĩnh mịch, giữa khung cảnh hỗn độn. Trong phòng ngủ, ánh nắng chiều xuyên qua cửa kính, phơi bày mọi sự bất cẩn lơ đễnh. Nàng đã chứng kiến cảnh bừa bộn này hàng ngày mà không mảy may bận tâm, nhưng giờ đây, lần đầu tiên sau khi sinh, nàng cảm thấy tràn trề sức lực thay vì uể oải. Nàng trải lại ga giường cho thật phẳng phiu, mở rộng cửa sổ, quét sạch bụi bặm. Vĩnh biệt bộ áo liền quần vải bông dành cho bà bầu. Nàng lục tung tủ quần áo cho tới khi tìm thấy một chiếc váy còn vừa vặn và một cái áo sơ mi không bó sát ngực quá. Nàng cau mày khi thấy mình trong gương, trông nàng vẫn xồ xề, thô kệch quá, nhưng tâm trạng thì đã khá hơn. Nàng cũng dành thời gian chỉnh trang lại mái tóc, chải đi vuốt lại hàng trăm lần. Khi chải xong, chiếc lược đã mắc đầy tóc, cuộn lại thành một túm dày những sợi vàng óng, vẻ mơn mởn của thời kỳ thai nghén giờ đã biến mất khi lượng hormone trong người nàng trở lại bình thường. Nàng biết điều này sẽ xảy ra. Nhưng sự mất mát ấy vẫn khiến nàng muốn khóc.

Đủ rồi, nàng tự nói với bản thân bằng giọng cứng cỏi, rồi tô son lên môi, chớp mắt cho lệ rơi hết. Đủ rồi, Norah Asher Henry.

Nàng khoác thêm chiếc áo len trước khi đi xuống tầng một và tìm thấy cả đôi giày đế bệt màu be của mình. Ít nhất thì đôi chân nàng đã trở lại nhỏ nhắn như xưa.

Nàng ghé qua thăm Paul - thằng bé vẫn ngủ say, hơi thở của nó thật khẽ nhưng nàng vẫn cảm thấy trên từng đầu ngón tay - sau đó nàng bỏ món thịt hầm đông lạnh vào lò, bày bàn ăn và mở một chai rượu. Nàng đang dở tay thay lọ hoa, tay vẫn cầm mấy thân hoa héo đã mềm oặt lạnh ngắt thì cửa bật mở. Tim nàng đập gấp hơn khi tiếng chân của David dội lại gần, và một lúc sau anh đã đứng nơi ngưỡng cửa, bộ comple xộc xệch trên thân người gầy gò, khuôn mặt đỏ bừng vì cuốc đi bộ. Anh đang rất mệt, nhưng nàng thấy anh có vẻ nhẹ nhõm khi nhìn thấy căn nhà sạch sẽ, kiểu ăn mặc quen thuộc của nàng và mùi thức ăn đang nấu trên bếp thơm sực. Trên tay anh là một bó thủy tiên nữa, vừa mới hái trong vườn. Khi nàng hôn anh, làn môi của anh áp vào môi nàng lành lạnh.

"Chào em," anh nói. "Xem ra em đã có một ngày tốt lành đấy nhỉ."

"Vâng. Tốt anh ạ." Suýt nữa thì nàng đã kể với anh những gì đã làm, nhưng thay vào đó nàng pha cho anh một cốc rượu: whisky nguyên chất, theo đúng sở thích của anh. Anh tựa người vào quầy bếp trong khi nàng rửa rau diếp. "Thế còn anh?" Nàng tắt vòi nước hỏi chồng.

"Không tệ lắm," anh trả lời. "Bận. Anh xin lỗi chuyện tối qua nhé. Có một bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim. Cũng may là không sao cả."

"Có bị chấn thương xương nữa không?" nàng lại hỏi.

"Ờ. Có, ông ấy bị ngã cầu thang. Gãy xương ống chân. Con vẫn ngủ hả em?"

Norah liếc đồng hồ thở dài. "Chắc em phải đánh thức con dậy rồi," nàng nói. "Em tính cho nó ăn ngủ đúng giờ giấc mà."

"Để anh," David nói rồi cầm bó hoa đi lên gác. Nàng nghe thấy tiếng anh bước đi trên tầng và mường tượng ra cảnh anh nghiêng người xuống để vuốt nhẹ lên trán Paul, cầm lấy bàn tay nhỏ xíu của nó. Nhưng chỉ vài phút sau David đã đi xuống một mình, anh đã thay chiếc quần jean và mặc áo len. "Con ngủ ngoan quá," David phân trần. "Mình cứ để nó ngủ đi em ạ."

Họ đi vào phòng khách và cùng nhau ngồi xuống sofa. Trong phút chốc mọi thứ bỗng trở lại như xưa, chỉ có hai người, và thế giới xung quanh họ vẫn còn là một nơi giản dị đầy hứa hẹn. Norah định đến bữa ăn sẽ kể cho David nghe về kế hoạch của nàng, nhưng lúc này, nàng bỗng thấy mình đang giải thích với anh về buổi lễ đơn giản mà nàng đã chuẩn bị, mẩu thông báo mà nàng đã đặt đăng. Càng nói nàng càng cảm thấy David nhìn mình chăm chú hơn, cái nhìn ẩn chứa vẻ gì đó như cảm giác bị tổn thương nặng nề. Nét mặt anh khiến nàng thoáng do dự; như thể anh đang bị lột mặt nạ và nàng đang nói chuyện với một kẻ xa lạ không thể lường trước phản ứng. Đôi mắt anh tối sầm lại, nàng chưa bao giờ nhìn thấy cảnh tượng đó, và cũng không thể đoán nổi anh đang nghĩ gì trong đầu.

"Anh không thích chuyện này," nàng nói.

"Không phải thế."

Nàng lại nhìn thấy nỗi đau trong mắt anh; nghe thấy nỗi đau trong giọng nói của anh. Vì khao khát muốn xoa dịu chồng, nàng suýt nữa rút lại tất cả, nhưng nàng bỗng cảm thấy sự ỳ trệ mà nàng đã thu hết nỗ lực để gạt sang một bên lại lởn vởn đâu đó trong phòng.

"Nó sẽ giúp em vượt qua nỗi đau," nàng nói. "Chuyện đó không có gì sai trái cả."

"Không," anh nói. "Nó không có gì sai trái cả."

Dường như anh định nói thêm, nhưng rồi anh tự kìm mình lại và thay vào đó, anh đứng lên, bước ra phía cửa sổ và nhìn chằm chằm vào bóng tối nơi công viên bên kia phố. "Nhưng chết tiệt thật, Norah." Anh nói, giọng trầm đục và dằn gắt, thứ giọng anh chưa từng nói bao giờ. Cơn thịnh nộ ẩn dưới từng câu từng lời khiến nàng khiếp đảm. "Sao em cứ phải ngoan cố như vậy? Ít nhất thì em cũng phải nói với anh một tiếng trước khi gọi cho báo chí chứ?"

"Nó chết rồi," Norah kêu lên, giờ thì chính nàng cũng giận điên người. "Có gì là đáng xấu hổ nào. Chẳng có lý gì phải giấu giếm chuyện đấy cả."

Vai David cứng đờ, anh vẫn không quay lại. Một người lạ mặt, chiếc áo khoác màu san hô vắt trên tay trong trung tâm mua sắm WolfWile, anh ta có vẻ gì thân quen một cách kỳ lạ, giống như một người nàng đã rất thân thiết nhưng chưa gặp lại nhiều năm trời. Vậy mà giờ đây, một năm sau ngày cưới, dường như nàng chẳng biết tí gì về anh cả.

"David," nàng nói, "chuyện gì đang xảy ra với chúng ta vậy?"

Anh không quay lại. Mùi thịt và khoai tây thơm ngào ngạt tràn ngập căn phòng; nàng sực nhớ bữa tối vẫn đang hâm lại trong lò, và bụng nàng sôi lên vì cơn đói nàng đã cố tình lờ đi suốt ngày hôm nay. Trên gác, Paul bắt đầu khóc, nhưng nàng vẫn ngồi yên tại chỗ, chờ đợi câu trả lời của anh.

"Chẳng có chuyện gì xảy ra với chúng ta cả," cuối cùng anh cũng lên tiếng. Khi anh quay lại, nỗi đau vẫn còn hiển hiện sống động trong đôi mắt anh và còn điều gì khác nữa - giống như sự cương quyết - mà nàng không tài nào hiểu được. "Em đang đem chuyện bé xé ra to đấy Norah," anh nói. "Anh nghĩ chuyện đó cũng dễ hiểu thôi."

Lạnh lùng. Thô bạo. Kẻ cả. Paul lại càng khóc dữ hơn. Sức ép của cơn thịnh nộ khiến Norah quay cuồng, nàng chạy ào lên gác, bế thằng bé lên và thay tã cho nó, thật nhẹ nhàng, nhẹ nhàng, mỗi động tác của nàng đều run lẩy bẩy vì căm giận. Rồi nàng ngồi xuống chiếc ghế đu, cởi nút áo, và cảm giác xoa dịu ùa đến. Nàng nhắm mắt lại. Dưới tầng một, David bước quanh các phòng. Ít nhất thì anh đã được chạm vào con gái họ, đã nhìn thấy khuôn mặt con bé.

Nàng sẽ tổ chức buổi lễ, bằng mọi giá. Nàng sẽ làm chỉ vì mình mà thôi.

Từ từ, từ từ, khi Paul đã bú no, ánh sáng đã nhạt dần, nàng dần dần bình tĩnh trở lại, lại biến thành dòng sông xanh bình lặng, sẵn lòng đón nhận thế giới và dễ dàng mang nó trôi theo dòng chảy của mình. Bên ngoài, từng đám cỏ đâm lên chậm rãi và lặng lẽ; những búi trứng nhện bắt đầu nứt vỏ; những cánh chim đập mải miết. Thật thiêng liêng, nàng tự nhủ, cảm thấy như được kết nối với tất cả mọi sinh linh đang sống và từng sống qua đứa trẻ mình bế trên tay và cả đứa trẻ đang nằm dưới ba tấc đất. Một lúc lâu sau nàng mới mở mắt, chợt sững sờ bởi bóng tối và vẻ đẹp quanh mình: một vệt sáng nhỏ phản chiếu qua nắm đấm cửa, hắt lên thành một cái bóng rung rinh trên tường. Tấm chăn mới của Paul, được đan với bao yêu thương trìu mến, vắt trên thành cũi rủ xuống như sóng dợn. Và trên bàn phấn là lọ thủy tiên David vừa mới cắm, cánh mỏng manh như làn da và gần như phát quang trong bóng tối, thu hết ánh sáng hắt lên từ dưới sảnh.

----------------

[6] Nguyên văn "I wake to sleep". Câu thơ trích trong bài thơ The waking của nhà thơ người Mỹ Theodore Huebner Roethke (1908 -1963). Ông được trao giải Pulitzer dành cho thơ vào năm 1954 cho tập thơ cùng tên.

[7] Virgina Wolf (1882-1941): tiểu thuyết gia, nhà phê bình và nhà văn tiểu luận người Anh, bà được coi là một trong những nhân vật văn học hiện đại lừng danh nhất thế kỷ 20

Ngày đăng: 26/04/2013
Người đăng: Beoni
Đăng bài
Bạn thích truyện này?