Gửi bài:

Mở đầu

Mở đầu

Tháng Hai năm 1823.
Gloucestershire, Anh Quốc.



Mỉa mai làm sao, thật thế, chuyện ấy đã xảy ra vào một ngày đầy nắng. 


Ngày nắng đầu tiên trong, gì nhỉ – sáu tuần bầu trời xám xịt liên tục, đi cùng là những đợt tuyết nhẹ rơi rải rác, hay thỉnh thoảng là lác đác cơn mưa? Ngay cả khi Phillip, nghĩ rằng chính bản thân anh trơ ra trước thói đỏng đảnh thất thường của thời tiết, đã cảm thấy tinh thần thư thái hơn, và nụ cười trở nên tươi rói. Anh đã đi ra ngoài – anh phải thế. Không ai có thể ở lại trong nhà suốt một ngày nắng rực rỡ huy hoàng đến vậy. 

Đặc biệt là giữa một mùa đông xám ngoét. 

Ngay cả bây giờ, hơn một tháng sau ngày hôm ấy, anh không thể nào tin được mặt trời lại có thể táo bạo trêu chọc anh lần nữa. 

Và làm sao anh có thể mù quáng trông mong vào việc ấy? Anh đã sống với Marina từ lúc họ kết hôn. Tám năm dài ròng rã để biết về một người phụ nữ. Anh nên mong đợi mới phải. Và sự thật…

Chà, sự thật là, anh đã mong đợi nó. Anh chỉ không muốn thú nhận niềm trông mong. Có lẽ anh chỉ đang cố lừa dối bản thân, thậm chí tự bảo vệ chính anh. Để ẩn giấu khỏi sự hiển nhiên, hy vọng là nếu anh không nghĩ, nó sẽ không bao giờ xảy ra. 

Nhưng chuyện đó đã xảy ra. Và vào một ngày đầy nắng. Chúa hẳn phải có một khả năng hài hước chán ghét. 

Anh cúi xuống nhìn ly whiskey, chẳng hiểu sao, đã cạn sạch. Anh chắc phải nốc cái thứ chết dẫm này, vậy nhưng anh không có bất kỳ ký ức nào về việc làm đó. Anh không cảm thấy chuếnh choáng, ít nhất không chuếnh choáng như anh nên phải thế. Hay không chuếnh choáng như anh muốn. 

Anh chằm chằm nhìn ra ngoài cửa sổ, nơi mặt trời ở phía chân mây. Đây phải là một ngày ngập tràn ánh nắng khác. Đó dường như giải thích được tâm trạng ngoại lệ ủ ê của anh. Ít nhất anh hy vọng thế. Anh muốn một lời giải thích, cần một sự cắt nghĩa, cho sự chán chường tồi tệ dường như đang tiếp nối. Sự sầu muộn làm kinh hãi anh. 

Hơn bất cứ thứ gì khác. Hơn cả lửa, hơn cả chiến tranh, hơn cả bản thân địa ngục. Ý nghĩ sẽ nhúng chìm trong buồn bã, của việc giống như 

Marina đã luôn luôn sầu muộn. Marina đã dành cả quãng đời cô, hay ít nhất cả quãng đời anh biết, sầu muộn. Anh không thể nhớ âm thanh tiếng cười cô, và sự thật là, anh không chắc anh có bao giờ biết nó.

Đây là một ngày đầy nắng, và – anh nhắm chặt mắt lại, dù không chắc cử chỉ ấy có nghĩa thúc giục ký ức hay xua nó đi. Đó là một ngày đầy nắng, và…


… 

“Không bao giờ mày cảm thấy da mày giống như thế này lần nữa sao, hả, Ngài Phillip?”

Phillip Crane quay về phía mặt trời, khép mắt lại khi để sự ấm áp trải ra trên da anh. “Thật hoàn hảo.” Anh lầm bầm. “Hay nó sẽ như thế, nếu không lạnh đến chết được.” 

Miles Carter, thư kí của anh, tặc lưỡi. “Không lạnh đến thế đâu. Mặt hồ không đóng băng năm nay. Chỉ có vài chỗ loang lổ.”

Miễn cưỡng, Phillip quay ra khỏi ánh nắng và mở mắt. “Dù vậy, đây không phải mùa xuân.”

“Nếu ngài đang mong ước mùa xuân, thưa ngài, có lẽ ngài nên xem lịch thì hơn.”

Phillip lườm xéo cậu ta. “Tôi trả lương cho cậu vì sự xấc láo này?”

“Thật thế. Và cũng vì tôi khá đẹp trai nữa.”

Phillip tự mỉm cười với bản thân, khi cả hai người đàn ông dừng lại để tận hưởng ánh nắng trong một lúc lâu.

“Tôi nghĩ ngài không bận tâm đến vẻ xám xịt.” Miles trò chuyện, khi họ tiếp tục di chuyển đến nhà kính của Phillip.

“Đúng vậy.” Phillip nói, sải bước tiến về phía trước với vẻ tự tin của một vận động viên bẩm sinh. “Nhưng chỉ bởi vì tôi không phiền về bầu trời đầy mây, không có nghĩa là tôi không thích mặt trời.” Anh dừng lại, suy nghĩ trong một thoáng. “Hãy đảm bảo là nói với bảo mẫu Millsby dẫn bọn trẻ ra ngoài vào hôm nay. Chúng sẽ cần những chiếc áo choàng ấm áp, dĩ nhiên thế, và những chiếc mũ, găng tay, cùng những thứ tương tự, nhưng chúng cần nhận một tý ánh nắng mặt trời. Chúng đã bị giam chân quá lâu rồi.”

“Tất cả chúng ta đều thế.” Miles lẩm bẩm.

Phillip tặc lưỡi. “Thật vậy.” Anh liếc qua vai về phía nhà kính. Anh lẽ ra phải nên xem xét đến thư từ bây giờ, nhưng anh có vài hạt giống cần phân loại, và thực lòng, không có lý do gì anh không thể hướng dẫn công việc của mình với Miles chỉ trong một giờ hay cỡ đó. “Đi tiếp đi.” Anh nói với Miles. “Tìm bảo mẫu Millsby. Cậu và tôi có thể bàn chuyện sau. Dù sao cậu cũng biết là cậu ghét nhà kính.”

“Không phải mùa này trong năm.” Miles nói. “Sức nóng thật đáng được chào đón.”

Phillip cong một bên mày khi anh nghiêng đầu về phía Romney Hall. “Cậu đang gọi căn nhà tổ tiên của tôi là đầy gió lùa?”

“Tất cả những căn nhà do tổ tiên để lại đều đầy gió lùa.”

“Vừa đúng.” Phillip nói với một nụ cười toe toét. Anh khá thích Miles. Anh đã thuê cậu ấy sáu tháng trước, để giúp đỡ một núi công việc giấy tờ cùng cả đống chi tiết, mà có vẻ như chất chồng từ việc điều hành gia sản nho nhỏ của anh. Miles khá tuyệt vời. Trẻ tuổi, nhưng giỏi giang. Và tính hài hước tỉnh khô của cậu ấy hoàn toàn được chào đón ở đây, nơi tiếng cười chẳng bao giờ dư dả. Những người hầu sẽ không bao giờ dám đùa giỡn với Phillip, và Marina… à thì, chẳng cần nói ra việc Marina không bao giờ cười đùa hay trêu ghẹo. 

Lũ trẻ đôi khi khiến Phillip bật cười, nhưng đó là một kiểu hài hước khác, và hơn nữa, phần lớn thời gian anh không biết phải nói gì với chúng. Anh đã cố, nhưng rồi anh cảm thấy quá ngại ngùng, quá to lớn, quá mạnh mẽ, để một việc như thế có thể xảy ra. Và rồi anh chỉ thấy chính mình xuỵt chúng đi, nói rằng chúng hãy trở lại với bà bảo mẫu. 

Đó là cách dễ dàng hơn. 

“Vậy, đi đi.” Phillip nói, đưa cho Miles một yêu cầu mà anh lẽ ra nên tự mình làm. Anh đã không thấy con anh hôm nay, và anh tin rằng anh nên thế, nhưng anh không muốn phá hủy một ngày bằng cách nói gì đó nghiêm khắc, điều mà anh chắc chắn sẽ làm. 

Anh sẽ tìm chúng khi chúng đi dạo với bảo mẫu Millsby. Đó là một ý hay. Sau đó anh có thể hướng sự chú ý của chúng tới vài loại cây và nói về nó, và mọi chuyện sẽ trở nên đơn giản, hoàn hảo và tốt lành.

Phillip bước vào nhà kính và đóng cửa lại sau anh, hít vào một hơi chào đón. Anh đã học về thực vật học ở Cambridge, đứng đầu lớp, và sự thật, anh đã có thể tiếp tục quãng đời học tập của mình, nếu anh trai anh không qua đời ở Waterloo, đẩy đứa con thứ là Phillip đây vào vai trò của một địa chủ và một quý ngài dân dã. 

Anh cho là nó có thể tệ hơn. Cuối cùng, anh có thể trở thành một người địa chủ và một quý ngài thành thị. Ít nhất, anh có thể đeo đuổi nghề nghiệp về những loài thực vật của mình trong sự thanh thản thích hợp. 

Anh cong người qua chiếc bàn thợ mộc của mình, kiểm tra công trình mới nhất – những hạt đậu mơn mởn mà anh đang cố gây giống, để chúng trở nên mập mạp và căng phồng hơn trong vỏ. Lô mới nhất này không chỉ nhăn nhúm lại, mà thậm chí còn biến thành màu vàng, sau cùng không phải là một kết quả được trông đợi. 

Phillip cau mày, rồi cho phép bản thân anh khẽ mỉm cười khi di chuyển đến góc nhà kính, để tập hợp những nguồn dự trữ lại. Anh chưa bao giờ quá kinh hãi bận lòng, khi những cuộc thử nghiệm của anh không đạt được như mong muốn. Theo ý kiến anh, cái khó bao giờ cũng ló cái khôn. 

Những sự rủi ro. Tất cả là về những rủi ro. Không một nhà khoa học nào sẽ thừa nhận nó, dĩ nhiên, nhưng phần lớn các phát minh vĩ đại chợt lóe lên, trong khi một người đang cố gắng giải quyết một vấn đề hoàn toàn khác. 

Anh cười lặng lẽ khi đặt những hạt đậu nhăn nhúm lại sang một bên. Với tỷ lệ này, anh sẽ chữa khỏi cho chúng vào cuối năm.

Trở lại công việc. Trở lại công việc. Anh chồm qua bộ sưu tập hạt giống của anh, dàn nhẹ chúng ra để anh có thể kiểm tra tất cả. Anh chỉ cần một hạt bên phải cho–

Anh ngước lên và nhìn qua tấm kính mới được rửa sạch. Một sự chuyển động qua khu đất đập vào mắt anh. Một ánh chớp đỏ.

Đỏ. Phillip tự mỉm cười với bản thân khi anh lắc đầu. Đó phải là Marina. Đỏ là màu yêu thích của cô, cái gì đó khiến anh luôn cảm thấy kỳ lạ. Bất cứ ai trải qua bất kỳ thời gian nào với cô, sẽ chắc chắn nghĩ rằng cô ưa thích một sắc màu tối hơn, ảm đạm hơn. 

Anh quan sát cô biến mất vào trong những bụi cây nhỏ, rồi trở lại với công việc. Hiếm khi Marina mạo hiểm ra ngoài. Những ngày này cô không thường rời khỏi nơi giam cầm trong phòng ngủ. Phillip sung sướng khi thấy cô ngoài ánh nắng mặt trời. Có thể nó sẽ hồi phục lại tinh thần cô. Không hoàn toàn, tất nhiên thế. Phillip thậm chí không nghĩ ánh nắng có khả năng làm việc đó. Nhưng có thể một ngày tươi sáng, ấm áp sẽ đủ kéo cô ra ngoài vài giờ, mang lại một nụ cười bé nhỏ trên gương mặt cô. 

Chúa biết bọn trẻ có thể cần điều ấy. Chúng thăm mẹ hầu hết ở trong phòng vào mỗi buổi sáng, nhưng thế vẫn chưa đủ. 

Và Phillip biết thiếu hụt ấy anh không thể bù đắp được.

Anh thở dài, một cơn sóng tội lỗi dâng lên. Anh không phải là người cha chúng cần, anh biết điều đó. Anh cố tự nói với bản thân anh đang cố hết sức, rằng anh đang tiến tới thành công trong những mục đích duy nhất của đời anh là làm một bậc cha mẹ tốt – rằng anh không cư xử như cha anh.

Nhưng dù vậy, anh biết thế vẫn chưa đủ. 

Với những dáng điệu kiên quyết, anh tự đẩy bản thân ra khỏi chiếc bàn thợ mộc của mình. Những giống cây có thể đợi. Các con anh cũng có thể đợi, nhưng không có nghĩa là chúng cần thế. Và anh nên để chúng lại với buổi đi dạo, không phải bảo mẫu Millsby, người không biết một một cành rụng từ một cây tùng bách, và gần như sẽ chắc nói với chúng rằng hoa hồng là hoa cúc, và… 

Anh liếc qua ngoài cửa sổ lần nữa, tự nhắc bản thân bây giờ đang là tháng Hai. Bảo mẫu Millsby không giống như định vị được bất cứ loại hoa nào trong thời tiết thế này, nhưng dù sao, điều ấy không phải là cái cớ cho việc anh nên để cho bọn trẻ đi dạo. Đấy là một trong những hoạt động của trẻ con mà anh thực sự nổi trội, và anh không nên né tránh trách nhiệm. 

Anh sải bước ra khỏi nhà kính, nhưng rồi dừng hẳn, khi chưa đến một phần ba đường trở lại Romney Hall. Nếu anh làm bọn trẻ vui thích, anh nên để chúng gặp mẹ. Chúng khát khao ở bên cô, dù ngay cả khi cô không làm gì hơn là vỗ vỗ vào đầu chúng. Phải, chúng sẽ tìm Marina. Điều đó thậm chí nghe có ích hơn là một buổi đi dạo ngoài trời. 

Nhưng từ kinh nghiệm của mình, anh biết không nên để tâm trạng Marina dính vào việc ấy. Chỉ bởi vì cô liều lĩnh ra ngoài, không có nghĩa là cô cảm thấy tốt. Và anh ghét việc để bọn trẻ thấy cô trong tâm trạng ủ ê. 

Phillip quay lại và hướng về phía bụi cây, nơi Marina biết mất vài lúc trước. Anh đi nhanh gấp hai lần so với Marina, nên không lâu nữa sẽ bắt kịp cô, và xác định được tâm trạng cô bây giờ. Anh có thể trở lại chỗ phòng bọn trẻ, trước khi anh để chúng bắt đầu lên đường với bảo mẫu Millsby. 

Anh đi xuyên qua những bụi cây, dễ dàng theo dấu vết của Marina. Mặt đất ẩm ướt, và Marina hẳn đã mang đôi bốt nặng nề, vì dấu chân cô in trên mặt đất khá rõ ràng. Chúng dẫn xuống con đường dốc và ra khỏi những bụi cây, sau đó là trên con đường đầy cỏ. 

“Chết tiệt.” Phillip lầm bầm, âm thanh chỉ vừa đủ để nghe thấy khi cơn gió thổi qua anh. Không thể nào thấy được dấu chân cô trên cỏ. Anh dùng tay để che cho khỏi chói, và lướt mắt về phía xa, tìm kiếm một dấu hiệu đỏ chỉ dẫn.

Không ở gần chòi nhà tranh bỏ hoang, không ở cánh đồng nơi Phillip dùng cho những cuộc thử nghiệm giống cây, không ở tảng đá lớn Phillip đã trải qua nhiều giờ leo trèo thuở anh còn nhỏ. Anh quay về phía bắc, đôi mắt nheo lại khi cuối cùng đã thấy cô. Cô đang thẳng hướng đến mặt hồ.

Mặt hồ.

Môi Phillip há ra khi anh chăm chăm nhìn vào dáng cô, di chuyển chậm rại đến mép nước. Anh hoàn toàn đông cứng; thật ra thì anh còn hơn cả thế, anh… đờ ra… khi tâm trí anh nhá lên một tia sáng lạ lùng. Marina không biết bơi. Anh thậm chí không biết nếu cô có thể. Anh cho là cô vừa nhận thức được có một cái hồ ở khu đất đó, anh chưa lần nào thấy cô đến đó, chưa một lần trong tám năm trời họ lấy nhau. Anh bắt đầu bước về phía cô, bằng cách nào đó, những bước chân anh chấp nhận điều mà tâm trí anh từ chối. Khi cô bước xuống dòng nước cạn, anh bắt đầu tăng tốc, dù vẫn còn quá xa để làm bất cứ việc gì ngoài thét gọi tên cô. 

Nhưng nếu cô nghe thấy anh, cô chẳng biểu lộ gì, vẫn tiếp tục những bước đi chậm rãi và vững vàng ra sâu hơn.

“Marina!” Anh thét gọi, bắt đầu chạy thục mạng. Anh vẫn còn cách khoảng một lúc ngắn nữa, thậm chí là với vận tốc tối đa của anh. “Marina!”

Cô tới nơi đáy hồ tụt xuống, và cô cũng hụt chân mất dạng, biến mất dưới mặt nước xám não lòng, chiếc áo choàng đỏ nơi cô trôi bập bềnh trên mặt nước vài giây, trước khi cùng cô mất hút. 

Anh thét gọi tên cô lần nữa, dù cô không thể nghe. Anh phanh lại và ngã nhào xuống con dốc dẫn đến mặt hồ, rồi tâm trí anh chỉ kịp nhận ra việc anh giật mạnh áo choàng và đôi bốt, trước khi lặn xuống dòng nước lạnh lẽo giá băng. Cô chìm chưa tới một phút; tâm trí anh nhận ra chắc chắn chừng ấy thời gian không đủ để làm cô chết đuối, nhưng cứ mỗi giây trôi qua cho việc tìm kiếm cô, sẽ là thêm một giây nữa dẫn cô đến cái chết. 

Anh đã bơi lội trong hồ nhiều lần không đếm hết, biết chính xác nơi đáy sâu, và anh với tới nơi mấu chốt ấy một cách nhanh chóng, chỉ vừa vặn chú ý đến những trang phục nặng nề của anh bị dòng nước ngáng đường. 

Anh có thể tìm thấy cô. Anh phải tìm thấy cô. 

Trước khi quá trễ. 

Anh lặn xuống, lướt mắt qua dòng nước tối mù. Marina hẳn phải đá tung vào vài đụn cát dưới đáy hồ, và anh chắc chắn đã làm điều tương tự, vì cát xoay vần xung quanh anh, những đám cát mờ đục quấy tung lên, khiến việc nhìn thấy trở nên khó khăn. 

Nhưng cuối cùng, Marina được cứu bởi một thói quen về màu sắc sặc sỡ của cô. Khi Phillip xuyên qua dòng nước, xuống dưới tận đáy, nơi anh trông thấy màu đỏ của áo choàng cô trôi nổi như một con diều uể oải. Cô không chống lại khi anh lôi cô lên; quả thật vậy, cô đã mất tỉnh táo, và không khác gì một cơ thể như đã chết nặng nề trong tay anh.

Họ trồi lên mặt nước, và anh hổn hển thở dữ dội để lắp đầy khí vào hai lá phổi đang rát bỏng. Trong một thoáng, anh không thể làm gì khác hơn ngoài việc hít thở, cơ thể anh nhận ra phải cứu chính mình trước khi có thể cứu ai khác. Rồi anh đỡ cô, cẩn thận để gương mặt cô trên mặt nước, dù cô không có vẻ gì là đang thở. 

Cuối cùng, khi họ đi đến mép hồ, anh kéo cô lên chỗ chật hẹp dơ bẩn nằm giữa dòng nước và bãi cỏ. Anh điên cuồng di chuyển tay kiểm tra xem cô còn thở không, nhưng chẳng có tí dấu hiệu hơi thở nào từ môi cô.

Anh không biết phải làm gì, chưa từng nghĩ đến việc phải cứu ai đó khỏi chết đuối, nên anh chỉ đơn giản làm những gì hợp lý nhất, đỡ cô vào lòng anh, mặt úp xuống, và vỗ mạnh vào lưng cô. Lúc đầu chẳng có gì xảy ra, nhưng sau lần vỗ đầy mạnh bạo vào lần thứ tư, cô ho sặc sụa, rồi sặc ra một dòng nước đen lòm. 

Anh nhanh chóng quay cô lại. “Marina?” Anh vội vã hỏi, nhẹ vỗ vào mặt cô. “Marina?”

Cô ho lần nữa, cả cơ thể cô chấn động bởi những cơn rùng mình liên tục. Rồi cô bắt đầu thở hộc tốc, hai lá phổi buộc cô phải sống, thậm chí ngay cả khi tâm trí cô khát khao một điều gì khác. 

“Marina.” Phillip nói, giọng nhẹ nhõm. “Cám ơn Chúa.” Anh không yêu cô, đã chẳng bao giờ thực sự yêu cô, nhưng cô là vợ anh, là mẹ các con anh, và trong tận nơi sâu thẳm bên dưới cái vẻ ngoài sầu thảm và tuyệt vọng khủng khiếp kia, cô là một người tốt bụng, tử tế. Anh có thể không yêu cô, nhưng anh không muốn cô chết. 

Cô chớp mắt, trông không tập trung. Và rồi, cuối cùng, cô như nhận ra cô đang ở đâu, anh là ai, và cô thì thào. “Không.”

“Anh đến đưa em về nhà.” Anh cộc cằn nói, giật mình trước từng chữ đầy giận dữ. 

Không. 

Sao cô dám chối bỏ sự giúp đỡ của anh? Có phải cô từ bỏ cuộc sống này chỉ vì buồn bã? Sự u sầu của cô phải chăng sẽ nhiều hơn của các con? Trong cuộc sống đầy bấp bênh, có phải, tâm trạng đớn đau sẽ quan trọng hơn việc chúng cần một người mẹ? 

“Anh đưa em về nhà.” Anh quạu quọ, nhấc cô vào vòng tay anh chẳng chút nhẹ nhàng. Giờ cô đã thở, và rõ ràng đang suy nghĩ, có thể lạc lối trong cái mớ hỗn độn ấy cũng nên. Không có gì cần thiết để đối xử với cô như một bông hoa mảnh khảnh.

“Không.” Cô lặng lẽ khóc. “Làm ơn đừng làm thế. Em không muốn… Em không…”

“Em sẽ về nhà.” Anh lên tiếng, lê bước lên ngọn đồi, lờ đi cơn gió lạnh buốt biến bộ đồ ướt đẫm của anh thành băng; thậm chí lờ đi cả những cục đất cứng như đá đè dưới đôi chân trần anh.

“Em không thể.” Cô thì thầm, như đó là những gì năng lượng ít ỏi của cô còn sót lại. 

Và khi Phillip nặng nhọc bế cô về nhà, tất cả những gì anh có thể nghĩ là, làm sao những lời như ấy lại đúng đắn đến thế.

Em không thể. 

Bằng cách đó, nó như tổng kết cả cuộc đời cô. 

 

Lúc chập tối, mọi việc trở nên rõ ràng rằng cơn cảm cúm có thể thành công, thay cho tất bại nơi mặt hồ.

Phillip đã bế Marina về nhà nhanh nhất anh có thể, và, với sự giúp sức của Bà Hurley, quản gia của anh, đã thay những bộ quần áo lạnh ngắt ra khỏi cô, cố gắng làm cô ấm lên dưới tấm chăn đã là một phần của những món đồ tư trang mà cô mang về nhà chồng tám năm trước.

 

"Chuyện gì đã xảy ra?" Bà Hurley thở dốc, khi anh sải bước qua cánh cửa nhà bếp. Anh đã không muốn dùng cửa chính, nơi có thể bị các con trông thấy, và bên cạnh đó, cánh cửa nhà bếp gần hơn tới hai mươi mét.

 

"Cô ấy ngã xuống hồ." Anh thô lỗ nói.

 

Bà Hurley không hiểu bằng cách nào nhìn anh vừa có vẻ nghi ngờ, vừa có vẻ cảm thông cùng một lúc, và anh biết bà ấy biết sự thật. Bà đã làm việc cho gia đình nhà Crane từ đám cưới của họ, bà biết tâm trạng của Marina.

 

Bà xua anh ra khỏi phòng khi họ đã đặt Marina lên giường, nhấn mạnh rằng anh cần thay quần áo của chính anh, trước khi anh cũng bị cái chết chộp lấy. Dù vậy, anh vẫn quay lại bên cạnh Marina. Đó là vị trí của anh khi là chồng cô, anh tội lỗi nghĩ, vị trí mà anh đã lẩn tránh trong suốt những năm gần đây.

 

Thật là chán nản khi bên cạnh Marina. Rất khó khăn.

 

Nhưng bây giờ không phải là lúc để lẩn tránh trách nhiệm, vậy nên anh ngồi cạnh cô suốt cả ngày lẫn đêm. Anh lau trán cô khi cô bắt đầu đổ mồ hôi, cố gắng để thờ ơ giúp cô uống nước khi cô tỉnh táo.

 

Anh nói với cô phải chiến đấu, ngay cả khi anh biết những lời nói của anh trôi tuột ra khỏi tai cô.

 

Ba ngày sau cô qua đời.

 

Đó là những gì cô muốn, nhưng chỉ có chút an ủi khi Phillip đối mặt với con anh, hai đứa sinh đôi, chỉ vừa mới bước qua tuổi lên bảy, và cố gắng giải thích mẹ chúng đã mất. Anh ngồi trong phòng riêng của chúng, thân hình to lớn của anh thật quá khổ so với bất kỳ chiếc ghế với kích cỡ bé tẹo trong phòng. Nhưng dù vậy anh vẫn ngồi xuống, vặn vẹo, và bắt chính anh nhìn vào cái nhìn chú tâm nơi chúng khi những lời ấy được phát ra.

 

Bọn trẻ nói ít thôi, chẳng giống chúng tí nào. Nhưng chúng trông không có vẻ gì là ngạc nhiên, khiến Phillip lo lắng.

 

"Cha – cha xin lỗi." Anh lên tiếng, khi kết thúc những gì cần phải nói. Anh yêu các con rất nhiều, và có anh thôi là một thiếu hụt với chúng. Anh chỉ biết vừa đủ làm thế nào để trở thành một người cha; làm thế quái nào anh có thể đảm đương cả vai trò của một người mẹ?

 

"Đó không phải lỗi của cha." Oliver nói, đôi mắt nâu của thằng bé đầy bối rối. "Mẹ ngã xuống hồ mà, phải không? Đâu phải cha đẩy mẹ."

 

Phillip chỉ gật đầu, không chắc phải trả lời ra sao.

 

"Bây giờ mẹ có hạnh phúc không?" Amanda nhẹ nhàng hỏi.

 

"Cha nghĩ là có." Phillip nói. "Mẹ sẽ có thể quan sát suốt quãng thời gian còn lại của các con trên thiên đường, nên mẹ phải hạnh phúc."

 

Hai đứa sinh đôi trông có vẻ ngẫm nghĩ về những lời ấy trong một lúc. "Con hy vọng mẹ hạnh phúc." Cuối cùng Oliver nói, giọng thằng bé cương quyết hơn vẻ ngoài. "Có lẽ mẹ sẽ không khóc nữa."

 

Phillip cảm thấy hơi thở nghẹn lại trong họng anh. Anh đã không nhận ra bọn trẻ nghe được những lần Marina khóc. Cô chỉ ngập trong nước mắt, khóc rất nhỏ vào buổi đêm muộn, và phòng chúng ngay trên phòng cô, nhưng anh luôn chắc rằng hai đứa nhỏ đã ngủ khi mẹ chúng bắt đầu khóc lóc.

 

Amada gật đầu đồng ý, mái tóc vàng óng của con bé lắc lư theo nhịp. "Nếu giờ mẹ hạnh phúc," con bé nói, "thì con mừng là mẹ đã đi."

 

"Mẹ không đi." Oliver xen ngang. "Mẹ đã chết."

 

"Không, mẹ đi xa." Amanda khăng khăng.

 

"Như nhau cả thôi." Phillip thẳng thừng nói, ước chi anh có gì để nói với chúng hơn sự thật. "Nhưng cha nghĩ hiện tại mẹ hạnh phúc."

 

Và bằng cách nào đó, điều ấy cũng là sự thật. Sau cùng, đó là những gì Marina đã muốn. Có lẽ đó là tất cả những gì cô đã muốn trong suốt quãng thời gian dài.

 

Amanda và Oliver im lặng trong một lúc lâu, cả hai đều dán mắt xuống nền nhà khi chân chúng đu đưa đá trên giường Oliver. Trông chúng quá nhỏ bé, ngồi đấy trên cái giường rõ ràng là quá cao. Phillip cau mày. Sao anh lại chưa bao giờ chú ý đến việc ấy trước kia. Không phải chúng nên ngủ trên những chiếc giường thấp hơn? Chuyện gì xảy ra nếu chúng ngã khỏi giường vào đêm tối?

 

Hay có lẽ chúng đã lớn cho tất cả những việc đó. Có lẽ chúng đã không còn ngã khỏi giường nữa. Có lẽ chưa bao giờ chúng như thế.

 

Có thể anh thật sự là một người cha tồi tệ. Có thể anh nên biết những thứ ấy.

 

Có lẽ... có lẽ... Anh nhắm mắt lại và thở dài. Có lẽ anh nên dừng suy nghĩ nhiều vào những thứ như thế, và đơn giản cố gắng hết sức rồi sống hạnh phúc với nó.

 

"Cha sẽ đi sao?" Amanda hỏi, ngẩng đầu lên.

 

Anh nhìn vào đôi mắt con, quá đỗi xanh, xanh như màu mắt Marina. "Không." Anh thì thầm quả quyết, khụy xuống và nắm lấy đôi bàn tay tý hon. Đôi bàn tay ấy quá nhỏ bé, thật mỏng manh trong bàn tay anh.

 

"Không." Anh nhắc lại. "Cha sẽ không đi đâu. Cha sẽ không bao giờ đi đâu..."

 

...

 

Phillip nhìn xuống ly whiskey của mình. Nó lại trống rỗng lần nữa. Buồn cười làm sao một ly whiskey lại có thể vơi đi, ngay cả sau khi nó đã được đổ đầy bốn lần trước.

 

Anh ghét việc hồi tưởng. Anh không chắc cái gì là tệ nhất. Là lúc anh ngập lặn dưới dòng nước, hay thời khắc lúc Bà Hurley quay sang anh và nói. "Có phải bà ấy đã ra đi?"

 

Hay đó là các con anh, sự đau đớn trên gương mặt, nỗi sợ hãi trong mắt chúng?

 

Anh nâng ly rượu lên môi, để những giọt cuối cùng chảy vào miệng. Phần tệ nhất chắc chắn là hai đứa con anh. Anh đã nói anh sẽ không bao giờ rời bỏ chúng, và anh không làm vậy – sẽ không làm vậy – nhưng sự hiện diện của anh đơn giản là không đủ. Chúng cần nhiều hơn nữa. Chúng cần ai đó biết cách làm thế nào để trở thành một bậc cha mẹ, ai đó biết cách làm thế nào để nói chuyện với chúng, biết thấu hiểu và dạy chúng xử sự, nghĩ suy.

 

Và vì anh không thể cho chúng một người cha khác, anh cho là anh nên nghĩ đến việc tìm cho chúng một người mẹ. Dĩ nhiên, như thế này là quá sớm. Anh không thể cưới bất kỳ ai, cho đến khi thời kỳ để tang hợp pháp hoàn tất, nhưng điều đó không có nghĩa là anh không thể tìm kiếm.

 

Anh thở dài, lún sâu vào chỗ ngồi. Anh cần một người vợ. Gần như có thể là bất cứ người vợ nào. Anh chẳng để tâm cô trông ra sao. Anh cóc quan tâm nếu cô có tiền của. Anh không thèm bận tâm nếu cô có thể tính nhẩm trong đầu, hay nói tiếng Pháp, hoặc thậm chí có thể cưỡi ngựa.

 

Chỉ cần cô đơn giản là hạnh phúc.

 

Chừng ấy có quá nhiều cho việc mong muốn một người vợ? Một nụ cười, ít nhất một lần một ngày. Có lẽ thậm chí chỉ âm thanh tiếng cười cô?

 

Và cô phải yêu thương các con anh. Hay ít nhất giả vờ yêu thương tốt đến mức, chúng không nhận ra sự khác biệt.

 

Chừng ấy đâu là quá nhiều, phải không?

 

"Ngài Phillip?"

 

Phillip ngẩng lên nhìn, tự nguyền rủa bản thân vì đã để cánh cửa phòng làm việc khép hờ. Miles Carter, thư ký của anh, đang thò đầu vào.

 

"Chuyện gì vậy?"

 

"Một lá thư, thưa ngài." Miles nói, bước tới trước và đưa cho anh lá thư. "Từ London."

 

Phillip nhìn xuống lá thư trong tay anh, đôi mày nhướng lên trước nét chữ nghiêng nghiêng rõ ràng đầy nữ tính. Anh đuổi Miles đi với một cái gật đầu, rồi cầm lá thư lên và mở nó ra khỏi lớp sáp ong. Một mảnh giấy rơi ra. Phillip nắm chặt nó giữa những ngón tay. Tờ giấy thượng hạng. Mắc tiền. Cũng nặng nữa, một dấu hiệu rõ ràng người gửi không cần tiết kiệm để giảm giá bưu phí.

 

Rồi anh quay lá thư lại và đọc:

 

Số 5, đường Bruton.
London

 

Ngài Phillip Crane,

 

Tôi viết thư này để biểu lộ lời chia buồn trước sự ra đi của vợ ngài, người chị họ Marina yêu quý của tôi. Tuy đã nhiều năm kể từ lần cuối tôi gặp Marina, tôi vẫn còn nhớ vẻ trìu mến của chị và đau buồn sâu sắc trước sự ra đi ấy.

 

Xin đừng ngần ngại hồi âm, nếu có bất cứ thứ gì tôi có thể làm được để xoa dịu nỗi đau trong thời điểm khó khăn này.

 

Kính thư,
Quý cô Eloise Bridgerton.

 

Phillip chà mắt. Bridgerton... Bridgerton... Marina có những người họ hàng với Bridgerton? Cô hẳn phải thế, nếu một người trong số họ gửi cho anh một lá thư.

 

Anh thở dài, rồi ngạc nhiên với chính bản thân khi với qua đống đồ trên bàn và lấy cây viết lông ngỗng. Anh gần như không nhận được lời chia buồn nào kể từ khi Marina mất. Có lẽ phần lớn bạn bè và gia đình đã lãng quên cô, từ sau đám cưới của họ. Anh cho là anh không nên ngạc nhiên, hay thậm chí ngạc nhiên. Cô hiếm khi rời khỏi phòng; thật quá dễ dàng để ai đó quên lãng một người không bao giờ họ trông thấy.

 

Cô Bridgerton xứng đáng với một bức thư hồi âm. Đó là cử chỉ lịch sự thông thường, hay ngay cả khi không phải thế (và Phillip khá chắc anh không biết đầy đủ các phép tắc xã giao về việc mất vợ của một người xa lạ), bằng cách nào đó, đây vẫn có vẻ như là điều đúng đắn cần làm.

 

Vậy nên, với hơi thở mỏi mệt, anh đặt cây bút lông ngỗng xuống tờ giấy.

 

Ngày đăng: 20/03/2013
Người đăng: Vũ Biên Thuỳ
Đăng bài
Bạn thích truyện này?