Gửi bài:

Chương 19

Với sự đồng ý và chấp thuận của Lo, hai bưu điện được đưa cho ngài giám đốc bưu điện Beardsley để làm địa chỉ chuyển tiếp thư từ là B.Đ. Wace và B.Đ. Elphinstone. Sáng hôm sau, chúng tôi ghé qua nơi đầu và phải chờ trong một hàng đợi tuy ngắn nhưng chậm. Lo bình thản nghiên cứu bộ sưu tập ảnh bọn lừa đảo treo trên tường. Bryan Bryanski đẹp trai, biệt danh Anthony Bryan, biệt danh Tony Brown, đôi mắt nâu nhạt, da mặt trắng bệch, bị truy nã vì tội bắt cóc. Faux-pas[1] của quý ông mắt-buồn là tội lừa đảo qua thư, và, dường như thế vẫn chưa đủ, ông ta còn khổ sở vì xương mu bàn chân bị biến dạng. Sullivan Sưng Sỉa đi cùng cảnh báo: được cho là có mang vũ khí, và nên xem như cực kỳ nguy hiểm. Nếu quý vị muốn làm phim từ cuốn sách của tôi, hãy để một trong những gương mặt này hòa dần vào gương mặt của chính tôi, ngay lúc tôi đang nhìn. Và ngoài ra còn có thêm tấm ảnh nhem nhuốc chụp Cô Gái Mất Tích, mười bốn tuổi, đi đôi giày nâu khi được nhìn thấy lần cuối, cho nó vần. Vui lòng báo cho Cảnh Sát Trưởng Buller.

Tôi quên béng những lá thư của mình; về phần Dolly, có bảng điểm của nàng và chiếc phong bì nhìn rất đặc biệt. Tôi thận trọng mở nó ra và đọc kỹ nội dung. Tôi kết luận là mình đã làm cái việc được đoán trước bởi lẽ nàng dường như chẳng quan tâm và lững thững đi đến quầy báo gần cửa ra.

"Dolly-Lo: Vậy là vở kịch đã thành công mĩ mãn. Cả ba con chó săn nằm im vì đã bị Cutler đánh cho chút thuốc, tớ nghi vậy, còn Linda thuộc làu mọi lời thoại vai của cậu. Nó diễn tốt, nó lanh lợi và kiểm soát được vai, nhưng không hiểu sao vẫn thiếu sự nhạy cảm, sức sống hồn nhiên, nét duyên ở nàng Diana của tớ - và của tác giả; nhưng không có tác giả ở đó để vỗ tay ủng hộ chúng mình như lần cuối, và cơn dông bão cực lớn bên ngoài trời làm nhiễu loạn sấm sét khiêm tốn sau sân khấu của chính chúng mình. Ôi bạn yêu ơi, đời cứ trôi vùn vụt. Giờ thì mọi thứ đã qua, trường học, vở kịch, chuyện lằng nhằng với Roy, cuộc vượt cạn của mẹ (đứa bé của chúng mình, than ôi, không sống được!), tất cả dường như đã thuộc về dĩ vãng, cho dù trên thực tế tớ vẫn còn vương những vết phấn son.

"Ngày kia nhà tớ sẽ đi New York, và tớ đoán là tớ không thể tìm được cách lách ra khỏi việc đi cùng cha mẹ tớ đến Châu Âu. Tớ có những tin thậm chí còn xấu hơn cho cậu đây. Dolly-Lo ạ! Tớ có thể không quay lại được Beardsley nếu và khi cậu quay lại. Vì mấy chuyện không đâu vào đâu, một thằng cậu biết là thằng nào rồi, còn thằng kia thì không phải là thằng cậu nghĩ là cậu biết, mà ba tớ muốn tớ đi học một năm ở Paris, còn ông ấy loanh quanh ở đó chờ tớ nhận học bổng Fullbright.

"Như dự đoán, Thi sỹ nghèo đọc vấp ở Cảnh III khi đến đoạn tiếng Pháp nhảm nhí. Nhớ không? Ne manque pas de dire à ton amant, Chimène, comme le lac est beau car il faut qu'il t'y mène.[2] Anh chàng si tình may mắn! Qu'il t'y - Khó uốn lưỡi làm sao! Thôi, ngoan nhé, Lollikins. Thi Sỹ của cậu gửi đến cậu muôn vàn yêu thương, và lời chúc tốt đẹp nhất đến Ông Cụ. Mona của cậu. T.B. Do mấy chuyện không đâu vào đâu, thành ra thư từ của tớ bị kiểm soát khắt khe. Vì vậy tốt hơn là cậu chờ cho đến khi tớ viết cho cậu từ Châu Âu." (Theo như tôi biết thì con bé chẳng bao giờ viết. Lá thư chứa đựng yếu tố dâm tục bí ẩn nào đó mà hôm nay tôi quá chán phân tích. Sau này tôi tìm thấy nó được lưu giữ ở một trong những cuốn Hướng Dẫn Du Lịch, và đưa ra đây à titre documentaire[3]. Tôi đọc nó hai lần.)

Tôi rời mắt khỏi lá thư nhìn lên và định — sao chẳng thấy Lo đâu. Lúc tôi đang bị bùa mê của Mona hút hồn, thì Lo nhún vai và biến mất. "Ông có tình cờ thấy — "Tôi hỏi lão gù đang quét sàn ngay gần lối vào. Lão có thấy, thằng già dịch ấy. Lão đoán con bé nhìn thấy bạn và đã hấp tấp chạy ra. Tôi cũng hấp tấp chạy ra. Tôi dừng bước — không có nàng. Tôi hấp tấp chạy vào. Tôi lại dừng bước. Cuối cùng rồi chuyện cũng xảy ra. Nàng đã ra đi mãi mãi.

Vào những năm sau tôi luôn tự hỏi tại sao ngày ấy nàng lại không bỏ đi mãi mãi. Có phải do sức níu kéo từ những bộ trang phục mới mua cho mùa hè của nàng trong chiếc xe khóa kín của tôi? Có phải do còn chút xíu nào đó chưa chín muồi trong kế hoạch chung? Hay đơn giản là vì, mọi chuyện đã được cân nhắc kỹ, có thể tôi vẫn còn khả dụng để chở nàng đến Elphinstone — điểm đến bí mật cuối cùng. Tôi chỉ biết tôi đã hoàn toàn chắc chắn là nàng đã bỏ tôi mãi mãi. Những ngọn núi tím hoa cà lảng tránh câu hỏi, bao nửa vòng quanh thị trấn, dường như nhung nhúc những Lolita hổn hển, bò toài, cười cợt, hổn hển, những Lolita đang tan biến vào màn sương mịt mù của chúng. Chữ W khổng lồ bằng đá trắng, trên bờ dốc tận đằng xa con phố cắt ngang, dường như chính là ký tự đầu tiên của chữ woe[4].

Bưu điện mới tinh và tuyệt đẹp, mà tôi vừa chạy ra khỏi, đứng giữa rạp chiếu phim vẫn còn say ngủ và lũ bạch dương đang ủ mưu. Thời điểm ấy là 9 giờ sáng theo giờ vùng núi. Con phố ấy tên là Phố Chính. Tôi vừa rảo bước bên phía xanh dương của nó vừa ngó qua bên đối diện: bên đó đã được một trong những buổi sáng đầu hè mong manh ấy phù phép và tô điểm bằng những ánh kính lấp lánh đó đây cùng không khí chung đầy vẻ ngập ngừng và gần như ngột ngạt với viễn cảnh về buổi trưa nóng bức đến không thể chịu nổi. Vừa đi ngang qua phố, tôi vừa lang thang lần dở, ấy là nói thế, suốt dọc khối nhà dài: Dược Phẩm, Bất Động Sản, Thời Trang, Phụ Tùng Ô Tô, Cafe, Đồ Thể Thao, Bất Động Sản, Đồ Gỗ, Đồ Gia Dụng, Western Union, Giặt Khô, Tạp Hóa. Ôi anh cảnh sát, anh cảnh sát ơi, con gái tôi đã trốn mất rồi. Thông đồng với thằng thám tử; đem lòng yêu kẻ tống tiền. Lợi dụng tình trạng hoàn toàn không nơi nương tựa của tôi. Tôi đã nhòm ngó hết mọi cửa hàng. Tôi thầm đắn đo cân nhắc xem không biết tôi có nên nói chuyện với ai đó trong số khách bộ hành thưa thớt hay không. Tôi không làm điều ấy. Tôi ngồi một lúc trong chiếc xe đang đậu. Tôi ngắm nghía vườn hoa công cộng bên tay phải. Tôi quay lại tiệm Thời Trang và Phụ Tùng Ô Tô. Trong cơn giận dữ chua chát, tôi tự nhủ — un ricanement[5] — rằng tôi đã thật điên khùng vì nghi ngờ nàng, rằng lát nữa thôi là nàng sẽ xuất hiện.

Nàng xuất hiện.

Tôi vòng xe lại và hất bàn tay nàng đặt lên tay áo tôi cùng nụ cười rụt rè và ngờ nghệch.

"Vào xe đi," tôi nói.

Nàng vâng lời, và tôi vừa rảo bước đi tới đi lui, vừa vật lộn với những ý nghĩ không tên, vừa cố gắng trù tính một cách nào đó xử lý trò lá mặt lá trái của nàng.

Ngay sau đó, nàng ra khỏi xe và lại bên cạnh tôi. Thính giác của tôi lại quay dần về trạm phát Lo, và tôi chợt nhận thấy nàng đang nói với tôi rằng nàng vừa gặp cô bạn cũ.

"Vậy sao? Ai thế?"

"Một cô bé ở Beardsley."

"Hay đấy. Anh biết tên từng đứa học lớp em. Alice Adams?"

"Nó không học lớp em."

"Được. Anh có trong tay danh sách toàn bộ học sinh. Xin em nói tên nó đi."

"Nó không ở trường em. Nó chỉ là một con bé sống ở thị trấn Beardsley thôi."

"Hay đấy. Anh cũng có trong tay danh bạ Beardsley. Ta sẽ tìm tất cả những ai có họ Brown."

"Em chỉ biết tên nó thôi."

"Mary hay Jane?"

"Không — Dolly, như em."

"Vậy là cùng đường rồi" (tấm gương mà bạn đập mặt vào và làm vỡ mũi mình). "Thôi được. Ta hãy thử từ góc khác. Em đã vắng mặt hai mươi tám phút. Vậy hai bé Dolly đã làm gì?"

"Bọn em đi đến tiệm giải khát."

"Và hai đứa uống gì ở đó —?"

"À, chỉ có hai Coke thôi."

"Cẩn thận đấy, Dolly nhé. Em biết là ta có thể kiểm tra điều đó."

"Chí ít thì, nó có uống. Em uống li nước trắng."

"Tốt. Thế chỗ ấy có phải ở đằng kia không?"

"Chắc chắn."

"Tốt, đi nào em, ta sẽ tra hỏi thằng pha soda."

"Chờ em chút. Em chợt nghĩ là nó có lẽ xa hơn nữa - ngay gần góc phố.

"Ghé đây nhé, đằng nào chẳng thế. Đi vào đi em. Nào, ta hãy xem." (Mở cuốn danh bạ điện thoại bị xích.) "Dịch vụ Tang Lễ Trang Nghiêm. Không, chưa đến. À đây rồi: Dược phẩm-Bán lẻ. Tiệm Dược Phẩm Trên Đồi. Hiệu Thuốc Larkin. Và hai cái nữa. Đấy là tất cả những gì ở Wace có vẻ có liên quan đến máy phun soda - chí ít thì cũng ở khu thương mại. Được thôi, ta sẽ kiểm tra tất cả bọn chúng."

"Đồ chết tiệt," nàng nói.

"Lo, hỗn láo sẽ chẳng đưa em đến đâu cả."

"OK," nàng nói. "Nhưng anh không được bẫy em nhé. OK, đúng là bọn em không đi uống nước. Bọn em chỉ nói chuyện và ngắm nghía quần áo trong cửa sổ bày hàng thôi."

"Cái nào? Cái cửa sổ kia chẳng hạn?"

"Vâng, cái kia, chẳng hạn."

"Ôi Lo! Ta hãy nhìn nó gần hơn nhé."

Quả là cảnh tượng đẹp mắt. Một gã thanh niên đỏm đáng đang hút bụi thứ gì đó na ná như tấm thảm, trên nó có hai hình nhân đang đứng, nhìn chúng như thể vừa bị vụ nổ mìn nào đó tàn sát. Một hình nhân hoàn toàn trần truồng, không tóc giả và không tay. Vóc người tương đối nhỏ và điệu bộ cười giả tạo của nó gợi ý rằng khi mặc quần áo nó đã thể hiện, và sẽ thể hiện khi mặc lại quần áo, một con bé kích cỡ như Lo. Nhưng trong trạng thái hiện thời thì nó không có giới tính nào cả. Đứng kế nó là một cô dâu cao hơn nhiều, che mạng, hoàn toàn hoàn hảo và còn trinh nguyên ngoài chuyện thiếu mất một cánh tay. Trên sàn, ngay chân những trinh nữ ấy, nơi gã đàn ông cần mẫn lê bước xung quanh cùng với cái máy hút bụi của hắn, đang nằm túm tụm ba cánh tay thon mảnh, và bộ tóc giả vàng hoe. Hai trong số ba cánh tay tình cờ bị bẻ trẹo đi và có vẻ hao hao giống cử chỉ chắp tay cầu khẩn đầy ghê rợn.

"Nhìn này, Lo", — tôi bình thản nói. "Nhìn kỹ đi. Chẳng lẽ đấy không phải là biểu tượng tuyệt hảo về một thứ quái quỷ nào đó? Dù sao thì" — Tôi tiếp tục lúc chúng tôi chui lại vào trong xe — "Anh đã có những biện pháp phòng ngừa nhất định. Ở đây (khéo léo mở ngăn để găng tay), trong cuốn sổ tay này, anh đã ghi lại số xe của anh bạn chúng ta."

Thật ngu ngốc, tôi đã không còn nhớ được nó. Những cái còn lại trong ký ức chỉ là chữ cái đầu tiên và con số kết thúc như thể toàn bộ dãy sáu ký hiệu lùi xa theo hình bán nguyệt, lõm lại đằng sau mặt kính nhuộm màu quá mờ để có thể giải đoán được chuỗi trung tâm, nhưng vừa đủ trong để nhìn thấy được những phần tận đầu mút của nó - chữ P viết hoa và số 6. Tôi phải đi vào những chi tiết ấy (mà tự chúng chỉ có thể thu hút sự quan tâm của nhà tâm lý học chuyên nghiệp) vì nếu không thì độc giả (à, nếu như tôi có thể hình dung anh ta như một học giả râu vàng hoe với đôi môi đỏ hồng đang mút la pomme de sa canne[6] trong khi anh ta hút cạn bản thảo của tôi!) có lẽ sẽ không hiểu được sức mạnh của cú sốc mà tôi phải chịu đựng khi nhận ra rằng chữ P đã chiếm được cái khung coóc-xê của chữ B và rằng số 6 đã bị xóa sạch. Những ký tự còn lại, với những vết tẩy xóa để lộ ra những vệt bôi qua bôi lại vội vã từ đầu gôm xóa của bút chì, và với những phần chữ số bị tẩy xóa hoặc dựng lại bằng nét chữ trẻ con, để lộ ra mớ dây thép gai rối beng với bất cứ luận giải logic nào. Tất cả mọi thứ tôi biết là tên bang — một cái kề sát bang mà thành phố Beardsley nằm ở trong.

Tôi không nói gì. Tôi nhét lại cuốn sổ tay vào ngăn, đóng nắp lại, và lái ra khỏi Wace. Lo đã kịp chộp lấy vài cuốn chuyện tranh từ ghế sau và, áo-trắng-bay-bay, khuỷu tay rám nắng tỳ ra ngoài cửa sổ xe, đắm mình vào cuộc phiêu lưu kỳ này của con hát hay chú hề nào đó. Ra khỏi Wace chừng ba hoặc bốn dặm, tôi tạt xe vào bóng râm ở một khu dã ngoại, nơi buổi sáng đang đổ rác nắng của nó lên cái bàn trống; Lo ngước nhìn lên với nửa nụ cười đầy ngạc nhiên và, không nói không rằng, tôi giáng cú tát trái tay như trời giáng đánh bốp một cái đúng vào gò má nhỏ nóng bừng và cứng cỏi của nàng.

Và sau đó là ăn năn, là ngọt ngào sướt mướt thổn thức hối lỗi, là đắm đuối quỵ lụy, là tuyệt vọng làm lành xác thịt. Trong đêm dịu dàng, ở Motel Mirana (lại Mirana!), tôi hôn lên lòng bàn chân màu vàng nhạt của đôi chân ngón dài của nàng, tôi hiến mình làm vật tế... nhưng tất cả những việc ấy đều vô ích. Cả hai chúng tôi đã phải chịu kiếp đọa đày. Và chẳng bao lâu sau tôi lại rơi vào vòng xoáy mới của những nhục hình khủng khiếp.

Trên con phố ở Wace, tại vùng ngoại ô của nó... Ôi, tôi đã hoàn toàn chắc chắn rằng đấy không phải là ảo giác. Trên con phố ở Wace, tôi đã thoáng thấy chiếc mui xếp màu Đỏ Aztec, hoặc bản sao giống hệt của nó. Thế chỗ Trapp, nó chứa chấp bốn hay năm thanh niên ồn ào và lòe loẹt đại diện cho vài giới tính khác nhau — nhưng tôi chẳng nói gì. Sau Wace xuất hiện những tình huống hoàn toàn mới. Trong một hay hai ngày, tôi tận hưởng sự tự tin trong thâm tâm, mà với nó tôi tự nhủ rằng chúng tôi không, và chưa từng bị bám đuôi; rồi tôi bắt đầu chán nản thấy rõ rằng Trapp đã thay đổi chiến thuật của gã và vẫn bám theo chúng tôi, trong chiếc xe thuê này hoặc chiếc xe thuê khác.

Như vị thần Proteus thực sự của xa lộ, gã chuyển từ chiếc xe này qua xe chiếc khác với sự dễ dàng đáng kinh ngạc. Kỹ thuật di chuyển này gợi đến sự tồn tại của các gara chuyên về các hoạt động "cho thuê xe theo chặng", nhưng tôi chẳng bao giờ có thể phát hiện ra những trạm xe mà gã sử dụng. Dường như đầu tiên gã chiếu cố dòng xe Chervolet, bắt đầu với chiếc mui xếp màu Kem Sinh Viên, rồi sau đó tiến tới chiếc sedan nhỏ màu Xanh Chân Trời, và từ dạo ấy phai dần thành màu Xám Sóng Nhào và Xám Củi Rều. Sau đó gã quay qua các mác xe khác và đi qua hết những màu sơn thuộc các sắc thái cầu vồng mờ nhạt, và một ngày nọ tôi thấy mình đang cố xác định sự khác biệt tinh tế giữa chiếc Melmoth Xanh Giấc Mơ của chính chúng tôi và chiếc Oldsmobile Xanh Đỉnh Đồi mà gã thuê; những sắc thái màu xám, tuy nhiên, vẫn là sắc màu bí mật được yêu thích của hắn, và, trong những cơn ác mộng đớn đau, tôi cố gắng vô ích để phân loại chính xác những sắc màu hư ảo như Xám Sò Chrysler, Xám Gai Chervolet, Xám Pháp Dodge...

Sự cần thiết phải thường xuyên để mắt đến hàng ria nhỏ và chiếc sơ mi mở phanh ngực — hoặc cái đầu hói và đôi vai rộng của gã — khiến tôi phải tìm hiểu cặn kẽ tất cả những chiếc ô tô trên đường — đằng sau, đằng trước, bên cạnh, đến, đi, mọi chiếc xe dưới ánh nắng nhẩy múa: chiếc ô tô của người đi nghỉ hòa nhã với hộp khăn giấy hiệu Mềm-Mượt ở ô cửa kính hậu; chiếc xe cà tàng phóng bạt mạng chở đầy ắp lũ trẻ xanh xao cùng với cái đầu chó xù thò ra, và chắn bùn bị bẻ cong; chiếc sedan tudor của một gã độc thân chật ních những bộ com-lê mắc trên giá; chiếc xe nhà di động to béo khổng lồ chạy ngoằn ngoèo trước mặt, dửng dưng với hàng xe cắn đuôi nhau đang giận sôi lên đằng sau nó; chiếc xe với cô hành khách trẻ nhã nhặn ngồi giữa hàng ghể trên để được gần hơn với chàng tài xế trẻ; chiếc xe chở trên nóc chiếc xuồng đỏ lật úp... chiếc xe xám chạy chậm dần trước mặt chúng tôi, chiếc xe xám bắt kịp chúng tôi.

Chúng tôi đang ở vùng đồi núi, tại nơi nào đó giữa Snow và Champion, và đang lăn bánh xuống con dốc gần như không thể nhận thấy, thì đúng lúc đó tôi lại nhìn thấy rất rõ ràng gã Thám Tử Tình Nhân Trapp ấy một lần nữa. Màn sương mù xám xịt đằng sau chúng tôi đã đậm đặc và cô lại thành chiếc Sedan chắc gọn màu Xanh Thuộc Địa. Bỗng dưng, như thể chiếc xe tôi đang lái phản ứng lại những cơn đau nhói của trái tim tội nghiệp của tôi, chúng tôi trượt từ bên này qua bên kia, với thứ gì đó gây ra tiếng páp-páp-páp bất lực ngay bên dưới chúng tôi.

"Xịt lốp rồi, chàng ơi," Lo hớn hở nói.

Tôi ghìm xe lại — sát bờ vực sâu. Nàng khoanh tay và gác chân lên táp lô. Tôi bước ra ngoài xem xét bánh sau bên phải. Phần đáy của lốp xe vuông vắn một cách ngượng ngùng và gớm ghiếc. Trapp đã dừng xe đằng sau chúng tôi khoảng năm mươi yard. Gương mặt xa cách của hắn tạo thành hình đốm nhờn cười cợt. Đây là cơ hội của tôi. Tôi bắt đầu bước về phía gã — với ý tưởng sáng ngời là hỏi mượn gã cái kích, mặc dù tôi cũng đang có một cái. Gã lùi lại một chút. Tôi vấp ngón chân vào hòn đá — và cảm thấy đâu đây như có tiếng cười. Đúng lúc ấy, chiếc xe tải khổng lồ lù lù hiện ra đằng sau Trapp và rầm rầm lao qua tôi — và ngay sau đó, tôi nghe thấy nó thốt lên tiếng còi vang động. Theo bản năng, tôi quay lại nhìn — và thấy chiếc xe của chính mình đang chầm chậm bò đi. Tôi có thể nhìn thấy Lo ngồi lố lăng sau tay lái, và động cơ chắc chắn là đang hoạt động - dù tôi nhớ tôi đã tắt nó nhưng không kéo thắng tay; và trong khoảng thời gian ngắn ngủi của một nhịp tim, mà tôi cần để lao được đến chiếc xe đang rền rĩ và cuối cùng cũng chịu ngừng lại, tôi chợt nhận ra rằng trong vòng hai năm vừa qua, bé Lo đã có dư thời gian để thu lượm được những nguyên tắc lái xe sơ đẳng. Khi tôi giật tung cửa xe, tôi chắc chắn rằng con bé chết tiệt này đã khởi động xe để ngăn tôi khỏi việc đi tới Trapp. Tuy nhiên, mưu mẹo của nàng tỏ ra vô ích, vì ngay vào lúc tôi đuổi theo nàng thì gã đã quay mạnh xe theo hình chữ U và chuồn mất. Tôi nghỉ một chút. Lo hỏi, sao tôi không nói cảm ơn nàng — chiếc xe tự khởi động để chạy và — Không nhận được câu trả lời, nàng mải mê nghiên cứu bản đồ, tôi bước ra ngoài xe lần nữa và bắt đầu thay cái "bánh xe tra tấn", như Charlotte trước kia hay nói. Có lẽ tôi đang mất trí.

Chúng tôi tiếp tục chuyến du hành kỳ cục của mình. Sau khi xuống một triền dốc đìu hiu và vô dụng, chúng tôi leo mỗi lúc mỗi cao lên. Trên con dốc đứng, tôi thấy mình đằng sau chiếc xe tải kếch xù đã vượt qua chúng tôi. Giờ thì nó đang rên lên trên con đường quanh co và không thể vượt nó được. Từ phần trước của nó, một mẩu bạc nhẵn hình chữ nhật — mảnh giấy bọc bên trong chiếc kẹo cao su — thoát ra ngoài và bay ngược vào kính chắn gió của chúng tôi. Tôi chợt nghĩ rằng nếu tôi thật sự mất trí, có lẽ cuối cùng tôi sẽ giết ai đó. Tóm lại là — Humbert mắc cạn nói với Humbert đang vùng vẫy — có lẽ thực sự khôn ngoan thì nên chuẩn bị đồ nghề — chuyển vũ khí từ hộp vào túi — đặng sẵn sàng lợi dụng cơn điên lúc nó đến.

[1]. Lỗi lầm.

[2]. Đừng quên kể cho anh chàng đang ve vãn cậu, Chimène, rằng cái hồ nước đẹp thế nào, vì chàng sẽ đưa cậu đến đó.

[3]. Làm tư liệu.

[4]. Nỗi đau.

[5]. Cười chế nhạo.

[6]. Mỏm tròn đầu ba toong.

Ngày đăng: 04/09/2014
Người đăng: Bùi Phương Linh
Đăng bài
Bạn thích truyện này?